
Ứng dụng AI và Big Data trong quảng bá và truy vết sản phẩm OCOP
Công nghệ mở lối cho nông sản địa phương
Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đang trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn Việt Nam. Thế nhưng, để sản phẩm làng quê có thể vươn ra thị trường lớn, cạnh tranh sòng phẳng và giữ vững niềm tin của người tiêu dùng, câu chuyện không chỉ dừng ở chất lượng thủ công. Công nghệ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data), đang được coi là chìa khóa giúp OCOP bước vào giai đoạn phát triển mới.
Trước đây, việc truy xuất nguồn gốc của nhiều sản phẩm OCOP còn khá lỏng lẻo. Các hợp tác xã chủ yếu dựa vào giấy tờ thủ công, tem nhãn truyền thống, khiến người tiêu dùng khó biết rõ nơi sản xuất, quy trình chế biến hay điều kiện bảo quản. Nguy cơ hàng giả, hàng nhái len lỏi, đặc biệt với những sản phẩm có giá trị cao như đặc sản vùng núi, càng làm giảm uy tín. Công tác quảng bá cũng gặp không ít trở ngại khi vẫn lệ thuộc các kênh chợ đầu mối, hội chợ hay cửa hàng địa phương, thiếu dữ liệu để phân tích nhu cầu thị trường.

Điểm bán hàng OCOP cần phải đạt các tiêu chí quy định. Ảnh: VGP
AI và Big Data mở ra cơ hội khắc phục những hạn chế đó. Hệ thống cảm biến và mã QR, kết hợp blockchain, có thể ghi nhận toàn bộ hành trình của sản phẩm, từ khâu trồng trọt, chăn nuôi, thu hoạch, chế biến cho đến khi tới tay người tiêu dùng. Mỗi lô hàng đều mang một “hồ sơ số” với đầy đủ thông tin về thời tiết, đất đai, quy trình chăm sóc, kết quả kiểm nghiệm an toàn thực phẩm. Dữ liệu lớn cho phép các hợp tác xã thu thập và phân tích thông tin từ mạng xã hội, sàn thương mại điện tử hay hành vi mua sắm trực tuyến, từ đó điều chỉnh mẫu mã, bao bì, giá bán để đáp ứng đúng thị hiếu.
Không chỉ dừng lại ở truy xuất nguồn gốc, AI còn hỗ trợ quảng bá một cách chính xác và tiết kiệm. Các công cụ quảng cáo tự động, phân tích từ khóa hay gợi ý cá nhân hóa giúp thông điệp tiếp cận đúng nhóm khách hàng tiềm năng. Bên cạnh đó, các hệ thống dự báo và cảnh báo sớm cho phép người sản xuất phát hiện sớm sâu bệnh, kiểm soát nhiệt độ, độ ẩm, hạn chế rủi ro hư hỏng trong bảo quản và vận chuyển.
Nâng tầm cho sản phẩm địa phương
Tại tỉnh Khánh Hoà, Hợp tác xã kinh doanh dịch vụ Xuân Hải nổi tiếng với những vườn nho xanh và táo xanh căng mọng. Giám đốc Trần Cao Tiên chia sẻ rằng người tiêu dùng ngày càng khắt khe, quan tâm chặt chẽ tới nguồn gốc sản phẩm. “Nếu có chứng nhận VietGAP hay hữu cơ, kèm mã truy xuất rõ ràng, khách hàng sẵn sàng trả giá cao hơn. Chúng tôi từ lâu đã canh tác sạch, dùng chế phẩm sinh học, nhưng để khẳng định chất lượng thì công nghệ là bắt buộc”, ông nói.
Hợp tác xã của ông Tiên đã bắt đầu số hóa quy trình sản xuất, từ ghi chép điện tử lượng phân bón, thời gian phun chế phẩm đến lịch thu hoạch. Ông cho biết bước tiếp theo là lắp đặt cảm biến theo dõi độ ẩm đất, nhiệt độ và ánh sáng để dự đoán sâu bệnh, điều chỉnh chăm sóc.

Sản phẩm của Hợp tác xã Kinh doanh dịch vụ Xuân Hải. Ảnh: NVCC
“Chúng tôi đã thử quảng bá qua mạng xã hội, livestream vườn nho, nhưng nếu áp dụng AI để phân tích dữ liệu khách hàng, biết rõ ai quan tâm sản phẩm hữu cơ, ai sẵn sàng mua online, chắc chắn sẽ hiệu quả hơn. Lợi ích lớn nhất là giữ được chất lượng đồng đều và mở rộng thị trường ra các sàn thương mại điện tử, thậm chí xuất khẩu”, ông Tiên khẳng định.
Còn tại vùng núi Lào Cai, Hợp tác xã Chế biến thực phẩm Gia Phú của bà Vũ Thị Thắm lại gắn liền với những đặc sản đậm đà hương vị núi rừng như thịt trâu gác bếp, phồng tôm cá hồi, thịt lợn hun khói. Bà Thắm cho biết Hợp tác xã đã đăng ký OCOP, gắn tem truy xuất nguồn gốc cho từng gói sản phẩm.
“Chúng tôi ký hợp đồng chặt chẽ với các hộ chăn nuôi, kiểm soát từ nguồn giống, thức ăn đến điều kiện giết mổ. Khách hàng chỉ cần quét mã là biết toàn bộ quy trình”, bà Thắm giải thích.
Gia Phú cũng đã tiến một bước xa hơn trong quảng bá. “Ngoài bán hàng truyền thống, chúng tôi tận dụng thương mại điện tử, livestream, kể câu chuyện sản phẩm qua video ngắn. AI có thể giúp phân tích phản hồi khách hàng: Họ thích vị mặn hay đậm, mẫu bao bì nào thu hút, từ đó điều chỉnh kịp thời. Nếu có thêm dữ liệu khí hậu, thời tiết vùng núi để dự đoán mùa tốt cho cá hồi, cá tầm, chúng tôi sẽ chủ động nguồn cung và giảm rủi ro”, bà Thắm chia sẻ.

Chị Vũ Thị Thắm, Giám đốc Hợp tác xã chế biến thực phẩm của tỉnh Lào Cai
Tuy vậy, bà Thắm cũng thẳng thắn chỉ ra những rào cản: “Chi phí đầu tư công nghệ ban đầu khá lớn, hạ tầng internet vùng núi còn hạn chế, nhân lực am hiểu công nghệ cũng không nhiều. Một số hộ dân vẫn quen cách làm truyền thống, nên cần thời gian và đào tạo. Nhưng chúng tôi tin rằng đầu tư công nghệ là con đường lâu dài để bảo vệ thương hiệu”.
Câu chuyện của hai hợp tác xã cho thấy AI và Big Data không chỉ là khái niệm xa vời mà đã trở thành nhu cầu thực tế. Từ vườn nho Khánh Hòa đến bếp hun khói Lào Cai, công nghệ đang giúp người nông dân kiểm soát chất lượng, tối ưu quảng bá, mở rộng thị trường.
Ứng dụng AI và Big Data trong quảng bá, truy vết chất lượng không chỉ giúp sản phẩm địa phương chinh phục thị trường trong nước mà còn mở đường cho xuất khẩu. Quan trọng hơn, nó khẳng định giá trị của những nông sản gắn liền văn hóa bản địa, giúp mỗi vùng quê giữ được bản sắc trong hành trình hội nhập.