TS. Võ Trí Thành: Tháo "ngòi nổ" trái phiếu để gỡ nghẽn dòng tiền TS.Võ Trí Thành: Không thể duy trì tăng trưởng xuất khẩu 2 con số mà phải nhìn vào giá trị gia tăng! |
Đối mặt với hai “cơn gió ngược” từ bên ngoài và hai “vòng gió xoáy” ở bên trong
Ngày 26/7, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tiếp tục tăng lãi suất cơ bản thêm 0,25 điểm %, đưa lãi suất lên mức cao nhất 22 năm, thế nhưng phản ứng thị trường trong nước dường như không còn quá quan tâm đến động thái này. Trên thực tế, từ đầu năm đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có tới 4 lần hạ lãi suất điều hành, đi ngược với xu hướng của đa số các nước lớn.
Theo TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển thương hiệu và cạnh tranh, có 2 “cơn gió ngược” cùng những bất định, rủi ro từ bên ngoài đã ảnh hưởng tới kinh tế Việt Nam. “Cơn gió ngược” thứ nhất đến từ sự suy giảm kinh tế thế giới, nhất là các đối tác thương mại, đầu tư chính của Việt Nam và mức độ phục hồi của nền kinh tế Trung Quốc.
“Cơn gió ngược” thứ 2 là các điều kiện tài chính tiền tệ ngặt nghèo. Song tin tốt lành, theo vị chuyên gia, là "cơn gió ngược" này có thể sẽ dịu đi do lạm phát đã qua đỉnh từ tháng 10/2022 và giảm nhanh hơn rất nhiều so với kỳ vọng (như lạm phát ở Mỹ). Chính sách tiền tệ ở nhiều nước phát triển dần sẽ nhẹ nhàng hơn. Đặc biệt, ngày 26/7 có thể là lần tăng lãi suất cuối cùng trước khi giữ nguyên hoặc giảm của Fed. "Cơn gió này đang từ cấp 7 cấp 8 sẽ giảm xuống cấp 3 cấp 4", ông nhận định.
Ngoài ra, đằng sau 2 "cơn gió ngược" này, chúng ta sẽ còn phải sống với một giai đoạn còn dài những rủi ro, bất định như xung đột địa - chính trị, cạnh tranh giữa các nước lớn, nợ tài chính, và biến đỏi khí hậu…
TS. Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển thương hiệu và cạnh tranh |
Bên ngoài có 2 cơn gió ngược thì bên trong nền kinh tế Việt Nam còn có 2 “vòng gió xoáy”. “Vòng gió xoáy” nặng nhất là từ cuối năm ngoái, chúng ta phải đối mặt với áp lực lớn về tỷ giá, lãi suất, lạm phát và cả vấn đề thanh khoản, vấn đề liên quan đến bảng cân đối tài sản của không ít ngân hàng. Ngoài ra còn là sự rung lắc thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản. Bên cạnh đó cũng có một số vấn đề liên quan đến cách xử lý càng dẫn đến niềm tin thị trường sụt giảm.
Bằng nỗ lực, sự quyết liệt chính sách và còn có sự “may mắn” khi áp lực từ bên ngoài giảm, hiện nhiều vấn đề tài chính tiền tệ đươc xử lý khá hiệu quả, thanh khoản cơ bản được cải thiện và khá dồi dào, thậm chí lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng có những lúc giảm đến mức không thể giảm được nữa, gần như bằng 0. Áp lực lãi suất, tỷ giá, lạm phát cũng đã giảm đi rất nhiều.
“Vòng gió xoáy” thứ 2 là kinh tế thực; từ quý IV/2022, kinh tế thực giảm sút rõ rệt, nhất là qua xuất khẩu. Trong suốt quá trình cải cách đổi mới từ những năm 1990 trở lại đây, chưa bao giờ ghi nhận mức giảm về xuất khẩu, thương mại như nửa đầu năm 2023. Đây là hiện tượng rất đáng suy nghĩ, đặc biệt là nhìn nhận trong trung và dài hạn, khi quy mô xuất khấu, thương mại trên GDP hiện đã rất lớn.
Theo vị chuyên gia, thực hiện được mục tiêu GDP cả năm đạt 6%, không nói đến mục tiêu Quốc hội đề ra 6,5%, là không đơn giản, rất thách thức. Song chúng ta vẫn có thể kỳ vọng vào tình hình thế giới ít nhiều bớt khó hơn và nhất là nỗ lực khắc phục từ bên trong. Những điều kiện thuận lợi hơn đã cho phép Việt Nam chuyển sang chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm hỗ trợ phục hồi, tăng trưởng kinh tế.
Làm sao để đồng Việt Nam hấp dẫn hơn USD trong nền kinh tế?
Có một biến số rất quan trọng, ảnh hưởng rất nhiều tới chính sách tiền tệ thời gian qua là tỷ giá. Đây cũng vẫn là vấn đề còn nhiều điểm phải lưu ý, tính tới trong thời gian tới. Câu chuyện tỷ giá trước hết gắn liền với một tam giác - cái được gọi là “Bộ tam không thể đồng thời”: Tỷ giá cố định, dòng vốn chu chuyển tự do và chính sách tiền tệ độc lập. Sự độc lập chính sách tiền tệ có thể hiểu là khả năng kiểm soát được cung tiền theo ý muốn của ngân hàng trung ương.
Về lý thuyết, chúng ta chỉ có thể đạt được 2/3, chứ không thể đồng thời đạt được cả 3 điều này. Có thể hiểu, không thể vừa có khả năng kiểm soát cung tiền một cách hiệụ quả, lại vừa cho dòng vốn chảy ra chảy vào nền kinh tế thoải mái, đồng thời có tỷ giá ổn định. Nếu muốn để cho ngân hàng trung ương kiểm soát được cung tiền, cho dòng vốn luân chuyển tự do, thì phải để tỷ giá hoàn toàn linh hoạt.
TS. Võ Trí Thành: Làm sao để người Việt Nam ưu tiên dùng tiền Việt Nam? |
Trên thực tế, ở nhiều nước và cả Việt Nam, tỷ giá không hoàn toàn linh hoạt nhưng cũng không cố định, dòng vốn ra - vào được thả ít nhiều cùng những hạn chế nhất định. Vì vậy, điều hành chính sách tiền tệ cần sự khéo léo và cả nghệ thuật; có những du di (và cả sự phối hợp với chính sách tài khóa) để đạt được mục tiêu trong từng giai đoạn.
Sự dịch chuyển dòng vốn này còn liên quan đến kỳ vọng lãi suất, tỷ giá, thể hiện rõ nhất theo nguyên tắc cân bằng lãi suất. Nếu lãi suất đồng USD cộng với kỳ vọng mất giá đồng tiền nội tệ lớn hơn lãi suất đồng nội tệ thì dòng vốn sẽ chảy ra, nhất là trong điều kiện dòng vốn luân chuyển tự do. Nhưng kể cả khi vốn không được luân chuyển tự do thì thị trường cũng có “đường lách”. Bài toán phức tạp hơn nếu có sự dịch chuyển trong nền kinh tế, giữa đồng USD và đồng nội tệ, tức vấn đề đô la hóa.
Vì vậy mà từ năm 2011 đến nay, chúng ta luôn kiên trì với chính sách để đồng VND luôn hấp dẫn hơn đồng USD. Lãi suất tiền gửi VND vì vậy luôn cao hơn nhiều so với USD, dù mức độ mất giá của VND hàng năm trong nhiều năm lại đây chỉ khoảng 1-2%. Kết quả là, mức độ đôla hóa đã giảm mạnh, người dân Việt Nam ưu tiên tiền đồng hơn. Dù vậy vẫn phải luôn đề phòng, chẳng hạn như tháng 10/2022 đã có hiện tượng hơi đảo chiều khi người ta có xu hướng chuyển sang găm giữ đồng USD, với kỳ vọng VND sẽ mất giá mạnh, chưa kể dòng vốn còn chạy ra ngoài do lãi suất của Mỹ tăng cao.
Đầu tháng 7/2023, tỷ giá đã “nổi sóng” do các doanh nghiệp FDI chuyển lợi nhuận về nước và lãi suất đồng VND thấp hơn rất nhiều so với USD trên thị trường liên ngân hàng. Bằng mọi cách, chúng ta phải để người Việt Nam ưu tiên dùng tiền Việt Nam, tức làm thế nào để đồng VND hấp dẫn hơn USD trong nền kinh tế.
Đến nay, tỷ giá đã khá ổn định, ngoài những nỗ lực trong nước thì cũng một phần may mắn khi lạm phát một số nước lớn hạ nhiệt, đồng USD trên thị trường quốc tế đi xuống. Trong năm nay, Việt Nam sẽ không phải quá lo về tỷ giá; nếu có mất giá thì cũng khó quá 1-1,5%.
Vấn đề Overshooting của tỷ giá (tỷ giá biến động quá mức) cũng dễ gặp phải trong nền kinh tế mở, tức khi có một cú sốc, thị trường thường sẽ phản ứng quá mức. Ví dụ như cuối năm 2022, trước biến động tài chính - tiền tệ từ bên ngoài, tỷ giá VND/USD vọt lên đến 24.800 đồng (VND mất giá hơn 9%); tâm lý thị trường bất an, tăng mạnh bán VND và mua USD.
Cộng với “bộ tam”, cân bằng lãi suất, lòng tin thị trường phụ thuộc vào độ minh bạch của chính sách, sự kiên định thực thi và hiệu lực của chính sách. Ví dụ khi tăng lãi suất để bảo vệ giá trị đồng tiền, nhưng vấn đề là thị trường có tin là đủ nguồn lực, làm đủ liều lượng để tác động hay không. Nếu thị trường không tin, thì tỷ giá có thể chỉ hạ nhiệt trong thời gian ngắn, nhưng sau đó lại bật lên.
Biến đông thị trường tài chính, về bản chất nằm ở lòng tin. Nếu không có lòng tin, thị trường dễ hoảng loạn, thậm chí đổ vỡ. May mắn là vừa qua chúng ta chỉ bị Overshooting 1 lần cuối năm 2022. Tỷ giá sau đó đã hạ nhiệt nhờ thực thi quyết liệt chính sách tiền tệ chặt chẽ, sự kiên định với ổn định kinh tế vĩ mô cộng thêm điều kiện bên ngoài thuận lợi hơn.