Hỗ trợ tối đa xuất khẩu vải thiều sang Trung Quốc “Thông đường” cho nông sản Việt sang Trung Quốc giữa dịch Covid-19 |
Mở cửa cho xuất khẩu khoai lang tím
Tại hội nghị trực tuyến "Tháo gỡ vướng mắc kỹ thuật thúc đẩy tiêu thụ nông sản trong điều kiện dịch Covid-19" do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tổ chức ngày 3/6, ông Trương Thành Dãnh - Giám đốc Sở NN&PTNT Vĩnh Long - cho biết, hiện trên địa bàn tỉnh có 14 ngàn ha trồng khoai lang với sản lượng 350 ngàn tấn. Trên địa bàn mới chỉ có 1 cơ sở nhà máy chế biến với sản lượng khiêm tốn 2-3 ngàn tấn/năm, số khoai lang còn lại chủ yếu xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc. Do dịch Covid-19, khiến việc tiêu thụ, xuất khẩu khoai lang gặp nhiều khó khăn. "Cách đây 2 tuần có thời điểm khoai lang xuống giá 1.000 đồng/kg, trong khi giá 5.000 đồng/kg thì nông dân mới có lãi", ông Trương Thành Dãnh nói.
Ảnh minh họa |
Trước tình này, để hỗ trợ cho bà con trồng khoai lang, Sở NN&PTNT tham mưu phát động doanh nghiệp, người dân cùng chia sẻ, do đó, giá bán đã tăng lên 3.000 đồng/kg nhưng với mức giá bán này bà con vẫn còn lỗ vốn. Về lâu dài, tỉnh kêu gọi đầu tư kho chứa và nhà máy chế biến. Ông Trương Thành Dãnh cũng kiến nghị, các bộ ngành xúc tiến tìm kiếm thị trường, đàm phán với Trung Quốc mở rộng xuất khẩu sản phẩm nông sản chính ngạch sang Trung Quốc, trong đó có sản phẩm khoai lang.
Liên quan đến vấn đề mở cửa xuất khẩu chính ngạch, bà Nguyễn Thị Thu Hương - Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT) - cho biết, hiện Cục đang đàm phán để mở cửa 19 thị trường cho 20 loại sản phẩm (trái cây, hạt giống, gạo, hoa, đậu đỗ, khoai lang… Bên cạnh đó, hỗ trợ xử lý, đàm phán tháo gỡ các tình huống kỹ thuật phát sinh trong quá trình xuất khẩu, đặc biệt là thông báo không tuân thủ liên quan đến kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm.
Đối với sản phẩm khoai lang, ngày 2/6, Bộ đã nhận được công hàm từ Trung Quốc. Theo đó, Tổng cục Hải quan Trung Quốc đồng ý xem xét cho phép Việt Nam xuất khẩu tạm thời khoai lang tím sang Trung Quốc với điều kiện vùng trồng, cơ sở đóng gói được kiểm tra, triển khai đảm bảo không nhiễm 10 loại sinh vật gây hại.
Hiện Cục làm việc với các tỉnh Vĩnh Long, Đắk Lắk, Đắk Nông để triển khai các nội dung liên quan đến kỹ thuật, đảm bảo hoàn thiện hồ sơ kỹ thuật để gửi sang Trung Quốc.
Ngoài ra, đối với một số tỉnh hiện nay đang chưa có cơ sở đóng gói thì Cục sẽ cùng địa phương thiết lập những cơ sở đóng gói trong thời gian sớm nhất đáp ứng yêu cầu phía Trung Quốc.
Đối với mặt hàng ớt, bà Nguyễn Thị Thu Hương cho hay, từ năm 2020, phía Trung Quốc đã yêu cầu tạm dừng mặt hàng ớt, đến nay phía Tổng cục Hải quan Trung Quốc đồng ý, trong thời gian chờ họ làm phân tích nguy cơ dịch hại, Trung Quốc đồng ý cho Việt Nam tạm thời xuất khẩu ớt trở lại sang nước này.
Tuy nhiên, Việt Nam cần đáp ứng được một trong hai điều kiện của họ. Thứ nhất là ớt sẽ phải được sản xuất từ những vùng không nhiễm ruồi đục quả. Thứ hai là phải được xử lý kiểm dịch thực vật trước khi xuất khẩu.
Chiều ngày 2/6, Cục Bảo vệ thực vật đã triệu tập cuộc họp với các đơn vị liên quan. Sau khi xem xét nghiên cứu, rà soát và nhận thấy biện pháp sản xuất từ vùng không nhiễm dịch hại, không nhiễm ruồi đục quả sẽ rất khó. Do đó, Cục Bảo vệ thực vật sẽ triển khai nghiên cứu và thiết kế các thông số kỹ thuật về xử lý kiểm dịch thực vật để gửi sang phía Trung Quốc.
Biện pháp xử lý dự kiến là bằng Methyl Bromide và việc này sẽ phải mất thời gian để thực hành thử nghiệm, bởi lực lượng chức năng sẽ phải thu gom lượng nguyên liệu lớn và làm nhiều lần.
Trong tuần tới, Cục sẽ cố gắng hoàn thành sớm bộ hồ sơ kỹ thuật về xử lý kiểm dịch thực vật sản phẩm ớt để gửi sang phía Trung Quốc. Về lâu dài, Cục sẽ hoàn thiện Bộ hướng dẫn cho các tỉnh thiết lập các vùng trồng không nhiễm dịch bệnh hại.
Ngoài ra, thông tin Malaysia sau 2 năm tạm dừng cũng đã cho phép Việt Nam xuất khẩu trở lại. Điều kiện của Malaysia là ớt cũng phải được sản xuất từ những vùng được Cục Bảo vệ thực vật cấp mã số và kiểm soát toàn bộ quá trình từ lúc trồng đến cơ sở đóng gói, xuất khẩu. Cục đã có văn bản gửi các địa phương, doanh nghiệp triển khai các nội dung này. Như vậy, thời gian tới, ớt sẽ được xuất khẩu trở lại sang Malaysia và Trung Quốc.
Đẩy mạnh xây dựng mã số vùng trồng
Đối với mặt hàng ớt xuất khẩu sang Malaysia, bà Hương cho hay, mặc dù Cục đã có văn bản gửi các địa phương, doanh nghiệp triển khai các nội dung này gần một tháng qua. Tuy nhiên, đến nay, chưa có địa phương nào phản hồi lại.
Bà Hương đề nghị các tỉnh phải tích cực trong việc cùng với Cục Bảo vệ thực vật hoàn thiện các hồ sơ kỹ thuật. Vì các thị trường nhập khẩu hiện nay đều yêu cầu phải quản lý cụ thể từ từng vùng trồng, từng cơ sở đóng gói. Do vậy, trách nhiệm của địa phương rất lớn trong việc thường xuyên giám sát, đôn đốc, đảm bảo sản phẩm của địa phương đáp ứng đủ, đúng với yêu cầu của các nước xuất khẩu sản phẩm.
Về giải pháp trong thời gian tới đối với các sản phẩm nông sản nói chung, Cục sẽ triển khai toàn bộ biện pháp thường xuyên theo dõi dự báo, áp dụng biện pháp phòng trừ tạm thời. Bên cạnh đó, phối hợp với các địa phương xây dựng vùng trồng, cơ sở xuất khẩu. Thời gian gian tới, vùng trồng, cơ sở đóng gói sẽ đảm bảo mục tiêu truy xuất nguồn gốc, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
Bà Hương cho hay, sau 10 năm thực hiện mã số vùng trồng, chất lượng nông sản được tăng lên nhiều, sản xuất theo cùng 1 quy trình, nhận thức của người nông dân tăng lên nhiều chuyển sang sản xuất theo định hướng thị trường, khách hàng; vùng trồng được cấp mã số nông dân trong vùng trồng tập hợp thành HTX kiểu mới sản xuất cùng 1 quy trình, ghi chép, trao đổi kinh nghiệm với nhau. “Vụ vải vừa rồi, giá của trái vải ở vùng trồng được cấp mã số cao hơn nhiều so với trái vải ở vùng trồng không được cấp mã số”, bà Hương cho biết thêm.