Tiếp tục chương trình Phiên họp chuyên đề pháp luật tháng 4/2023, chiều ngày 12/4 tại Nhà Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Viễn thông (sửa đổi).
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy phát biểu tại phiên họp |
Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Phạm Đức Long cho biết, các dịch vụ viễn thông cơ bản trên Internet (gọi tắt là OTT viễn thông - các dịch vụ trên Internet cung cấp tính năng tương tự dịch vụ viễn thông như gọi điện thoại, nhắn tin...) được sử dụng ngày càng phổ biến, có khả năng thay thế cho các dịch vụ viễn thông trong khi pháp luật hiện hành chưa có quy định quản lý, dẫn đến không bảo đảm quyền lợi của người sử dụng, an toàn, an ninh thông tin.
Dự thảo Luật đưa ra các quy định quản lý dịch vụ viễn thông cơ bản trên Internet trong viễn thông theo nguyên tắc: Phân loại dịch vụ dịch vụ viễn thông cơ bản trên Internet là dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng và quản lý theo khung pháp luật chung về viễn thông.
Quản lý bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Dự thảo Luật không khống chế tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài trong việc cung cấp dịch vụ viễn thông cơ bản trên Internet để phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam hiện nay và bổ sung quy định về trách nhiệm của doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định về bảo đảm an toàn, an ninh và bảo vệ dữ liệu của người sử dụng.
Về quản lý dịch vụ OTT viễn thông (Điều 23), Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy cho rằng, dịch vụ OTT viễn thông về bản chất là dịch vụ sử dụng mạng viễn thông để cung cấp các ứng dụng công nghệ thông tin (như Zalo, Viber, Telegram…).
"Việc sử dụng dịch vụ OTT phát triển rất nhanh, ảnh hưởng lớn đến doanh thu của các dịch vụ tin nhắn và thoại truyền thống của các doanh nghiệp viễn thông ở nhiều quốc gia bao gồm cả thị trường Việt Nam" - ông Lê Quang Huy cho hay.
Do đó, quản lý dịch vụ OTT viễn thông là chính sách quan trọng, có tác động lớn đến người dân, doanh nghiệp, đến công cuộc chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số mà Đảng và Nhà nước đang thúc đẩy.
Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường thấy rằng, pháp luật hiện hành chưa có quy định quản lý sẽ dẫn đến việc không bảo đảm quyền lợi của người sử dụng, an toàn, an ninh thông tin, do đó dịch vụ OTT cần phải được quản lý theo cách thức phù hợp.
Tuy nhiên, ông Lê Quang Huy nêu, cũng có một số ý kiến băn khoăn về cách thức quản lý như quy định của dự thảo Luật, cụ thể như: Quy định “Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông cơ bản trên Internet có thu cước hoặc không thu cước nhưng có số lượng người sử dụng dịch vụ hoặc phát sinh lưu lượng dịch vụ tại thị trường Việt Nam vượt mức ngưỡng phải có biện pháp bảo đảm sự hoạt động ổn định của dịch vụ” tại khoản 1 Điều 23 dự thảo Luật là khó khả thi.
Bởi vì việc cung cấp các dịch vụ này phụ thuộc vào khả năng truy cập Internet do các doanh nghiệp viễn thông cung cấp. Đồng thời, các nhà cung cấp dịch vụ này cũng không kiểm soát được việc người tiêu dùng chọn mạng nào. Các nhà cung cấp dịch vụ trực tuyến cũng không thể bảo đảm sự hoạt động ổn định của dịch vụ hoặc khắc phục các vấn đề về chất lượng dịch vụ.
Bên cạnh đó, quy định việc cung cấp dịch vụ viễn thông qua biên giới đến người sử dụng dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam phải thông qua thỏa thuận thương mại với doanh nghiệp viễn thông Việt Nam tại khoản 2 Điều 25 dự thảo Luật có thể thiếu khả thi trong áp dụng thực tế, gây lo ngại cho doanh nghiệp về vấn đề cạnh tranh, có thể làm hạn chế sự phát triển của các dịch vụ OTT tại Việt Nam.
Hiện nay, Bộ Quy tắc Truyền thông Điện tử châu Âu không yêu cầu dịch vụ OTT phải bảo đảm chất lượng dịch vụ (QoS) hoặc tuân thủ các yêu cầu QoS.
Vì vậy, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề nghị nghiên cứu chỉnh lý các quy định nêu trên để bảo đảm chặt chẽ, khả thi, phù hợp; rà soát việc quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ OTT cần gắn với quyền lợi của các doanh nghiệp này.
Đồng thời, đề nghị cân nhắc, chỉ nên luật hóa những nội dung đã được đồng thuận, đối với những nội dung chưa có sự thống nhất, chỉ nên quy định một số nội dung mang tính nguyên tắc trong dự thảo Luật và sẽ được cụ thể hóa trong văn bản hướng dẫn để bảo đảm tính linh hoạt trong thực tế.