Thủy sản Việt: Nắm chuẩn EU để mở rộng xuất khẩu

Nắm vững hệ thống pháp luật và tiêu chuẩn EU là điều kiện tiên quyết giúp doanh nghiệp Việt duy trì uy tín và tận dụng cơ hội mở rộng xuất khẩu thủy sản ra toàn cầu.

Thị trường EU chiếm 10,6% tổng kim ngạch xuất khẩu

Trong 9 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt khoảng 8 tỷ USD, với sản phẩm đã có mặt tại hơn 160 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, thị trường EU chiếm 10,6% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Giá trị xuất khẩu cá tra sang thị trường EU mới chiếm 8,4% tổng kim ngạch cá tra của Việt Nam. Ảnh: Báo Chính phủ.

Giá trị xuất khẩu cá tra sang thị trường EU mới chiếm 8,4% tổng kim ngạch cá tra của Việt Nam. Ảnh: Báo Chính phủ.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), nhu cầu nhập khẩu thủy sản của thị trường EU ước tính hơn 30 tỷ EUR mỗi năm, đứng thứ hai thế giới chỉ sau Trung Quốc. Tuy nhiên, hàng Việt Nam vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ so với các đối tác lớn như Na Uy, Ecuador, Canada.

Kể từ khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực vào tháng 8/2020, xuất khẩu thủy sản sang EU-27 đạt 958,7 triệu USD và dự kiến năm 2025 sẽ tăng lên gần 1,2 tỷ USD. Mặc dù chưa có bước đột phá về thị phần, EVFTA đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì đà tăng trưởng ổn định của thương mại Việt Nam - EU giữa bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động. Trong khi Mỹ áp thuế đối với nhiều mặt hàng nhập khẩu, EU trở thành điểm đến an toàn, ít rủi ro về chính sách, thu hút các doanh nghiệp Việt Nam, Ấn Độ và Indonesia chuyển dịch đơn hàng sang khu vực này.

Hiện nay, 5 thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam tại EU gồm Hà Lan, Đức, Pháp, Tây Ban Nha và Italia, chiếm 68% tổng kim ngạch xuất khẩu. Việt Nam đã xuất khẩu thủy sản tới 26 nước trong khối EU-27, với dư địa mở rộng sang các thị trường Nam Âu và các thị trường ngách vẫn còn rất lớn.

Trong các nhóm hàng xuất khẩu sang EU, cá tra được đánh giá có tiềm năng tăng trưởng lớn, với giá trị xuất khẩu sang EU mới chiếm 8,4% tổng kim ngạch cá tra của Việt Nam. Sản phẩm này có lợi thế về chuỗi sản xuất hoàn chỉnh, đảm bảo an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc.

Tôm cũng là mặt hàng triển vọng, khi Việt Nam là nhà cung cấp lớn thứ ba cho châu Âu, với hơn 50% kim ngạch là sản phẩm giá trị gia tăng. Đáng chú ý, tốc độ chuyển đổi sang các mô hình nuôi ứng dụng công nghệ cao giúp nâng năng suất, giảm chi phí và hạn chế tác động môi trường.

Nhóm sản phẩm tiềm năng thứ ba là cá ngừ, Việt Nam hiện đứng thứ bảy thế giới về xuất khẩu cá ngừ đóng hộp sang EU. Tuy nhiên, ngành này chịu ảnh hưởng từ ‘thẻ vàng’ IUU kéo dài 8 năm, khiến doanh nghiệp đối mặt với chi phí kiểm tra và thời gian thông quan kéo dài.

Theo ông Lê Hoàng Lâm - Giám đốc Trung tâm Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường vùng 3 (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), tiêu chuẩn EU không chỉ là sự công nhận mà còn là yêu cầu bắt buộc đối với xuất khẩu thực phẩm sang thị trường EU. Ngay cả các quốc gia ngoài EU như Vương quốc Anh, Bắc Ireland, Thụy Sĩ, Na Uy, hay Israel, Iran và một số nước Trung Đông cũng yêu cầu sản phẩm và cơ sở phải tuân thủ tiêu chuẩn EU mới được nhập khẩu.

Do đó, tiêu chuẩn EU trở thành kim chỉ nam trong kiểm soát an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và quản lý các cơ sở sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy sản của Việt Nam. Cộng đồng doanh nghiệp cần nắm vững quy định xuất khẩu, đặc biệt các yêu cầu về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và quản lý chất lượng, đồng thời triển khai hiệu quả vào thực tế sản xuất, chế biến. Đây là điều kiện tiên quyết để hàng hóa Việt Nam vào EU và mở rộng sang các thị trường khác.

Việt Nam có hơn 600 doanh nghiệp được EU công nhận

Từ chỉ 18 doanh nghiệp được EU công nhận năm 1999, đến nay, Việt Nam đã có hơn 600 doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản được EU công nhận, đưa Việt Nam dẫn đầu khu vực châu Á - Thái Bình Dương về số lượng doanh nghiệp được công nhận và góp phần mở rộng thị trường và nâng cao uy tín sản phẩm Việt trên trường quốc tế.

Đưa ra những lưu ý cho doanh nghiệp xuất khẩu, ông Lê Hoàng Lâm cho hay, mỗi lô hàng xuất khẩu sang thị trường EU phải đi kèm chứng thư theo mẫu chuẩn, cung cấp thông tin về lô hàng và được cơ quan cấp chứng thư Việt Nam xác nhận các nội dung trọng yếu: Nguồn gốc xuất xứ, điều kiện hoạt động của cơ sở, kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước, chuỗi sản xuất được giám sát, cùng kết quả kiểm nghiệm an toàn thực phẩm và dịch bệnh. Doanh nghiệp cần nắm rõ yêu cầu này để triển khai đúng quy trình sản xuất, chế biến và kiểm soát chất lượng.

Hệ thống pháp luật EU về thủy sản rất phức tạp, không có phiên bản tiếng Việt, do đó doanh nghiệp nên tìm đến cơ quan cấp chứng thư để được hướng dẫn chi tiết, tránh rủi ro trong quá trình sản xuất và xuất khẩu. Trọng tâm không phải là “có hay không” các quy định EU, mà là nắm vững các quy định liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp, biết cách thực thi và đảm bảo chứng nhận trong thực tế.

EU quy định chi tiết về cấu trúc cơ sở, trần, hệ thống kiểm soát nước, xử lý cá, tàu cá, vệ sinh công nhân, quản lý chất lượng nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm từ sản xuất đến xuất khẩu. Đồng thời, EU cũng đưa ra giới hạn tối đa cho phép (MRLs) theo từng nhóm thực phẩm. Doanh nghiệp phải xác định rõ loại sản phẩm xuất khẩu (thủy sản hay thực vật) và nhóm cụ thể để thiết lập hệ thống kiểm soát phù hợp.

“Việc nắm vững hệ thống pháp luật và tiêu chuẩn EU không chỉ giúp doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu thuận lợi sang EU, mà còn mở rộng cơ hội vào các thị trường công nhận tiêu chuẩn châu Âu trên toàn cầu”, ông Lê Hoàng Lâm nói.

Ngày 29/8/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Công điện số 150/CĐ-TTg, nhấn mạnh việc tăng cường truy xuất nguồn gốc, đảm bảo chất lượng và uy tín sản phẩm nông, lâm, thủy sản xuất khẩu. Công điện yêu cầu áp dụng các tiêu chuẩn và quy trình quản lý nghiêm ngặt, ưu tiên thiết lập chuỗi sản xuất, chế biến và xuất khẩu theo tiêu chuẩn EU, nhằm nâng cao chất lượng, an toàn thực phẩm và khả năng cạnh tranh.

Theo bà Tô Thị Tường Lan - Phó Tổng Thư ký VASEP, trong bối cảnh thị trường EU ngày càng đề cao chất lượng, bền vững và minh bạch, ngành thủy sản Việt Nam cần triển khai chiến lược dựa trên bốn trụ cột chính. Thứ nhất, phát triển bền vững, bao gồm sử dụng hiệu quả tài nguyên, giảm phát thải và bảo tồn đa dạng sinh học.

Thứ hai, nâng cao chất lượng và phát triển sản phẩm cao cấp, từ cải thiện chuỗi nuôi, giám sát dư lượng kháng sinh, đến chế biến giá trị gia tăng, khai thác sản phẩm đặc trưng như tôm rừng ngập mặn hay tận dụng phế phẩm.

Thứ ba, đa dạng hóa thị trường và tăng khả năng thích ứng, mở rộng sang Mỹ Latinh, châu Á, giảm phụ thuộc vào một vài thị trường chủ lực.

Thứ tư, minh bạch chuỗi sản xuất và tài chính, công khai dữ liệu sản xuất, môi trường, tài chính để nâng uy tín và hội nhập sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Chiến lược này vừa giúp doanh nghiệp duy trì thị phần EU, vừa tạo cơ sở vững chắc cho mở rộng xuất khẩu quốc tế.

Mặc dù EU không phải thị trường quyết định về kim ngạch, nhưng các tiêu chuẩn của EU vẫn là nền tảng quan trọng để thủy sản Việt duy trì thị trường EU và mở rộng sang các thị trường có yêu cầu tương đương. Do đó, cộng đồng doanh nghiệp và cơ quan quản lý cần duy trì và phát huy uy tín chất lượng, đảm bảo hệ thống kiểm soát và điều kiện chế biến xuất khẩu luôn đạt chuẩn.

Nguyễn Hạnh
Bình luận