Tạo không gian thể chế mới phát triển năng lượng giai đoạn 2026-2030

Đại biểu Quốc hội đánh giá dự thảo Nghị quyết có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm tạo không gian thể chế mới cho phát triển năng lượng giai đoạn 2026-2030.

Gỡ điểm nghẽn trong đầu tư nguồn điện, lưới điện

Chiều 8/12, tiếp tục Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030.

Đại biểu Hà Sỹ Đồng - đoàn Quảng Trị.

Đại biểu Hà Sỹ Đồng - đoàn Quảng Trị.

Phát biểu tại phiên họp, đại biểu Hà Sỹ Đồng - đoàn Quảng Trị cho biết, dự thảo Nghị quyết lần này có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm tạo không gian thể chế mới cho phát triển năng lượng giai đoạn 2026-2030, nhất là các cơ chế vượt trội để tháo gỡ điểm nghẽn trong đầu tư nguồn điện, lưới điện, hạ tầng lưu trữ năng lượng và phát triển năng lượng mới.

Đánh giá cao tinh thần mạnh dạn mở đường của Chính phủ, đại biểu Hà Sỹ Đồng cũng đề nghị hoàn thiện một số nhóm vấn đề trọng tâm. 

Về phạm vi điều chỉnh và khung cơ chế, theo đại biểu, dự thảo đã bao quát tương đối đầy đủ các lĩnh vực trọng tâm như: Đầu tư nguồn điện quan trọng, cơ chế liên kết vùng, điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực, cơ chế mua bán điện trực tiếp, phát triển điện khí - than - dầu khí và lưu trữ năng lượng BESS.

Song cần nhấn mạnh rõ hơn yêu cầu đồng bộ giữa cơ chế đặc thù theo Nghị quyết với các luật chuyên ngành để tránh xung đột khi triển khai thực tế, đặc biệt là Luật Điện lực, Luật Đầu tư, Luật Đất đai và Luật Quy hoạch.

Về điều chỉnh Quy hoạch điện, Quy hoạch lưới điện, ông Hà Sỹ Đồng nhận xét, dự thảo đã mở cơ chế cho phép điều chỉnh linh hoạt các danh mục nguồn và lưới nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

"Tôi đề nghị bổ sung tiêu chí đánh giá rủi ro đối với các dự án chậm tiến độ, đồng thời, tạo cơ chế minh bạch để UBND cấp tỉnh chủ động đề xuất điều chỉnh danh mục các dự án lưới điện trọng điểm liên vùng" - đại biểu nói. 

Về đầu tư xây dựng dự án điện lực, ông Đồng cho rằng, dự thảo quy định rõ việc cho phép triển khai các dự án nguồn, lưới điện phù hợp quy hoạch điện mà không phải chờ điều chỉnh môi trường đầu tư.

Nhưng đề nghị rút ngắn thời gian phê duyệt chủ trương đối với dự án ưu tiên; bổ sung cơ chế giao một đầu mối chịu trách nhiệm phối hợp thủ tục đất đai - môi trường - phòng cháy và hoàn thiện hành lang pháp lý cho hệ thống lưu trữ năng lượng BESS.

Về cơ chế phát triển điện gió ngoài khơi, đại biểu đoàn Quảng Trị nhận định, dự thảo đã có tiến bộ lớn trong quy trình chấp thuận chủ trương đầu tư, thẩm định hồ sơ và yêu cầu năng lực tài chính của nhà đầu tư.

"Tôi kiến nghị rút ngắn thời gian cấp phép khảo sát; thống nhất mẫu hồ sơ; bổ sung tiêu chí đánh giá năng lực nhà đầu tư đối với dự án quy mô lớn; và xác định một cơ quan trung ương làm đầu mối điều phối" - đại biểu nêu. 

Về cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA), ông Đồng đánh giá, đây là bước tiến quan trọng nhưng cần bổ sung giới hạn rủi ro đối với hệ thống truyền tải; đồng thời nghiên cứu cơ chế hợp đồng linh hoạt theo giờ cao điểm - thấp điểm để phù hợp đặc thù năng lượng tái tạo.

Về cơ chế đầu tư dầu khí - than - xăng dầu dự trữ, theo đại biểu, dự thảo đã mở rộng cơ chế lựa chọn nhà đầu tư và cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất để triển khai các dự án hạ tầng năng lượng trọng điểm. Song, đề nghị nhấn mạnh lộ trình chuyển từ cơ chế cấp phép sang cơ chế thị trường minh bạch, đặc biệt với LNG nhập khẩu để tránh rủi ro phụ thuộc và kéo dài tiến độ.

Năng lượng là "mạch máu" của nền kinh tế

Phát biểu về nội dung trong Nghị quyết liên quan đến cơ chế đặc thù phát triển năng lượng, cụ thể là quy định khuyến khích doanh nghiệp khu vực nhà nước và tư nhân tham gia nghiên cứu, đầu tư phát triển điện hạt nhân mô đun nhỏ - SMR tại điều 10, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh - đoàn Lâm Đồng cho biết, Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển đổi năng lượng sâu rộng, trong khi yêu cầu về an ninh năng lượng, giảm phát thải và duy trì tăng trưởng ở mức cao ngày càng trở nên cấp thiết. 

Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh - đoàn Lâm Đồng.

Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh - đoàn Lâm Đồng.

Những thách thức này đòi hỏi chúng ta phải có những lựa chọn chiến lược dài hạn, trong đó, điện hạt nhân mô-đun nhỏ là một hướng đi đáng cân nhắc và phù hợp với điều kiện Việt Nam.

SMR có ưu thế quy mô linh hoạt, công suất vừa và nhỏ, có thể triển khai theo mô-đun, thời gian xây dựng ngắn hơn, đảm bảo an toàn thụ động cao và đặc biệt thích hợp để thay thế dần các nguồn điện than cũ hoặc bổ sung công suất nền ổn định cho lưới điện quốc gia.

SMR không còn là câu chuyện thí điểm. Trên thế giới, nhiều quốc gia đã thương mại hóa hoặc đang đi rất nhanh. Mỹ, Canada, Pháp và Anh không chỉ thúc đẩy khu vực tư nhân tham gia mà còn xem đây là động lực đổi mới công nghệ. Một số quốc gia châu Á có điều kiện tương đồng với Việt Nam cũng đang lựa chọn SMR cho các khu vực hạ tầng yếu, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.

Điểm chung của họ là không đặt gánh nặng đầu tư lên vai duy nhất của nhà nước, mà huy động các tập đoàn năng lượng, công nghiệp chế tạo, công nghệ môi trường cùng tham gia.

"Tôi tán thành vì quy định này mở ra một cơ chế linh hoạt hơn rất nhiều so với cách tiếp cận truyền thống. Điện hạt nhân trước đây gần như chỉ do Nhà nước đảm nhận, quy mô dự án lớn, thời gian đầu tư dài và yêu cầu kỹ thuật rất cao. Với SMR, cách tiếp cận mới cho phép huy động sáng tạo kỹ thuật, tăng khả năng nội địa hóa và chủ động công nghệ" - đại biểu Trịnh Thị Tú Anh nhấn mạnh. 

Phân tích cụ thể, đại biểu cho hay, lĩnh vực này đòi hỏi nguồn lực lớn, công nghệ cao, chuỗi cung ứng dài hạn. Nếu chỉ dựa vào ngân sách nhà nước thì không thể tạo được hệ sinh thái công nghiệp hạt nhân hiện đại. Việc huy động doanh nghiệp nhà nước cùng doanh nghiệp tư nhân sẽ giúp đa dạng hóa nguồn lực, chia sẻ rủi ro và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

Nhiều nước đã chứng minh mô hình công - tư mang lại hiệu quả cao. Doanh nghiệp tư nhân có động lực đầu tư, tiếp cận công nghệ nhanh, còn doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, bảo đảm an ninh - an toàn và định hướng chiến lược. Sự kết hợp này giúp rút ngắn thời gian nghiên cứu, thử nghiệm và triển khai dự án.

Bên cạnh đó, khuyến khích doanh nghiệp nghiên cứu và đầu tư SMR cũng đồng nghĩa mở ra cơ hội hình thành ngành công nghiệp chế tạo mô-đun trong nước, tạo việc làm chất lượng cao và nâng vị thế khoa học, công nghệ của Việt Nam trong chuỗi giá trị hạt nhân toàn cầu.

Tuy nhiên, đại biểu cho rằng, phát triển SMR phải đi kèm điều kiện: An toàn - trách nhiệm - minh bạch. Điện hạt nhân luôn đòi hỏi những tiêu chuẩn cao nhất về an toàn, an ninh và quản lý rủi ro.

Việc khuyến khích doanh nghiệp tham gia không có nghĩa là “mở cửa hoàn toàn”, mà phải dựa trên ba trụ cột: Một là, xây dựng khung pháp lý riêng cho SMR, bao gồm cấp phép thiết kế, thẩm định công nghệ, giám sát vận hành và kiểm soát chất thải phóng xạ.

Hai là, yêu cầu năng lực tài chính, năng lực công nghệ, và trách nhiệm môi trường rõ ràng đối với mọi doanh nghiệp tham gia, bảo đảm Nhà nước giữ vai trò kiểm soát cuối cùng.

Ba là, triển khai thận trọng, có lộ trình, bắt đầu từ dự án nghiên cứu - thử nghiệm - trình diễn, đánh giá kỹ tác động xã hội và môi trường, lấy ý kiến cộng đồng một cách minh bạch. Khuyến khích không phải là buông lỏng, mà là tạo hành lang để những chủ thể có năng lực thực sự phát triển công nghệ mới, trong khi nhà nước giữ vai trò điều tiết và giám sát tối cao.

Bà Trịnh Thị Tú Anh khẳng định, năng lượng là mạch máu của nền kinh tế. Trong bối cảnh cam kết Net Zero vào năm 2050 đang đến gần và nhu cầu điện năng ngày càng lớn, chúng ta cần những "cú hích" táo bạo nhưng khoa học.

"SMR chính là cơ hội để Việt Nam vừa đảm bảo an ninh năng lượng, vừa từng bước làm chủ công nghệ cao. Việc trao quyền cho cả khu vực tư nhân tham gia lĩnh vực này thể hiện sự tin tưởng của Quốc hội vào năng lực của doanh nghiệp Việt, đồng thời khẳng định quyết tâm của chúng ta trong việc đa dạng hóa nguồn năng lượng, giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch" - bà Trịnh Thị Tú Anh bày tỏ. 

Các đại biểu cơ bản tán thành sự cần thiết ban hành Nghị quyết của Quốc hội về các cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030. Đây là bước đi quan trọng nhằm cụ thể hóa Nghị quyết số 70 của Bộ Chính trị ban hành ngày 20/6/2025, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia trong giai đoạn mới.

Quỳnh Nga
Bình luận

Có thể bạn quan tâm