Tận dụng C/O ưu đãi mở rộng dư địa xuất khẩu gỗ

Giữa nhiều biến động, tận dụng hiệu quả C/O ưu đãi trong các FTA đang trở thành “chìa khóa” giúp ngành gỗ Việt Nam đa dạng hóa thị trường và giữ đà tăng trưởng xuất khẩu.

Ông Ngô Sỹ Hoài - Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam đã có cuộc trao đổi với phóng viên Báo Công Thương xung quanh vấn đề này.

Ông Ngô Sỹ Hoài - Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam

Ông Ngô Sỹ Hoài - Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam

Xuất khẩu gỗ năm 2025: Giữ đà tăng trưởng trong bối cảnh nhiều khó khăn

- Thưa ông, xin ông chia sẻ bức tranh tổng thể về tình hình xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam trong năm 2025?

Ông Ngô Sỹ Hoài: Năm 2025 là một năm không dễ dàng đối với các doanh nghiệp ngành gỗ. Hoa Kỳ hiện vẫn chiếm trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam, trong khi năm nay, doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều khó khăn liên quan đến thuế và các biện pháp phòng vệ thương mại. Bên cạnh đó, bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhu cầu tiêu dùng tại một số thị trường lớn chưa phục hồi như kỳ vọng.

Tuy nhiên, trong bối cảnh khó khăn đó, các doanh nghiệp gỗ đã chủ động triển khai nhiều giải pháp để duy trì xuất khẩu, đặc biệt là mở rộng sang các thị trường mới, tận dụng tốt hơn các hiệp định thương mại tự do (FTA), đồng thời đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại theo hướng đa dạng hóa thị trường. Nhờ vậy, tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam trong năm 2025 ước đạt trên 17 tỷ USD, tăng so với mức 16,2 tỷ USD của năm 2024, cho thấy ngành gỗ vẫn giữ được nhịp tăng trưởng tương đối ổn định.

C/O ưu đãi: “Đòn bẩy” nâng sức cạnh tranh cho sản phẩm gỗ Việt

- Trong bối cảnh xuất khẩu gỗ gặp nhiều khó khăn ở thị trường lớn nhất, ông đánh giá như thế nào về việc các doanh nghiệp gỗ tận dụng giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) ưu đãi trong các FTA để đa dạng hóa thị trường xuất khẩu?

Ông Ngô Sỹ Hoài: Hiện nay, gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam đã được xuất khẩu tới khoảng 168 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chỉ có khoảng 5 thị trường lớn chiếm hơn 90% tổng kim ngạch xuất khẩu, gồm Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và Liên minh châu Âu (EU).

Trong thời gian qua, các doanh nghiệp gỗ đã rất nỗ lực tìm cách mở rộng xuất khẩu sang các thị trường khác ngoài nhóm thị trường truyền thống này. Điều đáng mừng là xuất khẩu sang nhiều thị trường mới đều ghi nhận mức tăng trưởng tích cực. Chẳng hạn, thị trường Nhật Bản được dự báo có thể đạt mức tăng trưởng từ 20-25% trong năm nay; các thị trường khác cũng có xu hướng tăng.

Các FTA mà Việt Nam đã ký kết và đang thực thi thực sự tạo ra một khung khổ pháp lý thuận lợi, giúp môi trường cạnh tranh của ngành công nghiệp gỗ trở nên thông thoáng hơn. Nhờ các ưu đãi thuế quan thông qua C/O ưu đãi, sản phẩm gỗ của Việt Nam khi xuất khẩu sang EU, các nước trong CPTPP hay các FTA khác đều có lợi thế cạnh tranh tốt hơn so với nhiều quốc gia đối thủ.

Chính vì vậy, tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi của các doanh nghiệp gỗ đã tăng lên qua từng năm. Chúng tôi kỳ vọng rằng, trong thời gian tới, dưới áp lực cạnh tranh ngày càng lớn từ thị trường, các doanh nghiệp sẽ tận dụng hiệu quả hơn nữa những lợi thế mà các FTA mang lại để tiếp tục đa dạng hóa thị trường xuất khẩu.

Tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi của các doanh nghiệp gỗ đã tăng lên qua từng năm (Ảnh: VGP)

Tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi của các doanh nghiệp gỗ đã tăng lên qua từng năm (Ảnh: VGP)

Chủ động nguồn nguyên liệu: Điều kiện tiên quyết để tận dụng FTA

- Để tận dụng tốt các FTA và C/O ưu đãi, vấn đề vùng nguyên liệu đáp ứng tiêu chuẩn thị trường là yếu tố then chốt. Thời gian qua, việc chủ động nguồn cung nguyên liệu của ngành gỗ được triển khai như thế nào, thưa ông?

Ông Ngô Sỹ Hoài: Từ năm 2020, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp của Việt Nam (VNTLAS). Với hệ thống này, việc kiểm soát gỗ nhập khẩu được tăng cường, bảo đảm toàn bộ gỗ nhập khẩu vào Việt Nam không có nguồn gốc khai thác bất hợp pháp.

Đối với nguồn nguyên liệu trong nước, Việt Nam đang đẩy mạnh phát triển các loại chứng chỉ rừng, đặc biệt là chứng chỉ quản lý rừng bền vững FSC - hệ thống chứng chỉ do Việt Nam xây dựng và đã được các tổ chức quốc tế công nhận. Hiện nay, diện tích rừng có chứng chỉ quản lý rừng bền vững đang gia tăng rất nhanh, tạo nền tảng quan trọng cho ngành chế biến và xuất khẩu gỗ.

Song song với đó, Việt Nam cũng đang tích cực chuẩn bị để sẵn sàng thực thi Quy định không gây mất rừng và suy thoái rừng (EUDR) của EU. Nhìn chung, các sáng kiến và quy định quốc tế hướng tới quản lý rừng bền vững, đảm bảo tính hợp pháp và truy xuất nguồn gốc đến tận cùng đều đang được Việt Nam triển khai một cách chủ động và quyết liệt.

Trong khi nhiều quốc gia khác còn do dự, Việt Nam kiên định lựa chọn con đường chỉ đưa gỗ hợp pháp, gỗ khai thác bền vững vào chuỗi cung ứng. Tôi cho rằng đây chính là lợi thế cạnh tranh lớn, giúp ngành gỗ Việt Nam có thể biến thách thức thành cơ hội, gia tăng thị phần và phát triển xuất khẩu theo hướng bền vững hơn trong thời gian tới.

Nỗ lực đa dạng hóa thị trường để giảm phụ thuộc

- Theo ông, trong năm 2026, ngành gỗ cần tập trung vào những giải pháp nào để tiếp tục gia tăng kim ngạch xuất khẩu?

Ông Ngô Sỹ Hoài: Năm 2026, chúng tôi cho rằng ngành gỗ cần đồng thời triển khai cả các giải pháp ngắn hạn và dài hạn. Trước mắt, các yêu cầu về đảm bảo tính hợp pháp, truy xuất nguồn gốc gỗ tại các thị trường lớn ngày càng khắt khe. Hầu hết các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay đều đòi hỏi khả năng truy xuất đến từng thửa đất, từng nguồn nguyên liệu đưa vào chuỗi cung ứng.

Trước yêu cầu đó, các bộ, ngành liên quan, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cùng cộng đồng doanh nghiệp đã và đang rất tích cực phối hợp, chuẩn bị đồng bộ trên toàn chuỗi từ khai thác, chế biến đến xuất khẩu. Dù còn nhiều khó khăn, chúng tôi tin rằng ngành gỗ Việt Nam có đủ năng lực để đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng cao này.

Về thị trường, ngoài việc tiếp tục củng cố các thị trường lớn, chúng ta đang làm mới cách tiếp cận tại nhiều thị trường truyền thống. Ví dụ, với Nhật Bản, trước đây chủ yếu xuất khẩu dăm gỗ và viên nén gỗ, thì nay cần đẩy mạnh thêm các sản phẩm đồ gỗ, ván công nghiệp - những mặt hàng mà người tiêu dùng Nhật Bản vẫn có nhu cầu lớn.

Tương tự, tại thị trường Hàn Quốc và Trung Quốc, ngoài viên nén gỗ hay gỗ dán làm bao bì, doanh nghiệp cần tìm kiếm thêm các nhóm sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu đa dạng hơn của thị trường. Bên cạnh đó, các thị trường như Úc, New Zealand, Mexico hay một số nước châu Phi cũng đang mở ra những cơ hội mới.

Mục tiêu xuyên suốt là giảm sự phụ thuộc quá lớn vào một thị trường duy nhất, đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ, qua đó tạo nền tảng vững chắc hơn cho tăng trưởng xuất khẩu gỗ trong trung và dài hạn.

- Xin cảm ơn ông!

Trong bối cảnh các thị trường lớn gia tăng yêu cầu kỹ thuật và phòng vệ thương mại, việc tận dụng hiệu quả C/O ưu đãi trong các FTA đang trở thành lợi thế cạnh tranh quan trọng của ngành gỗ Việt Nam. Nhờ ưu đãi thuế quan, sản phẩm gỗ Việt Nam khi xuất khẩu sang EU, các nước CPTPP và nhiều thị trường FTA khác có khả năng cạnh tranh tốt hơn, tạo dư địa mở rộng thị trường ngoài các thị trường truyền thống. Thực tế cho thấy, tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi của doanh nghiệp gỗ tăng dần qua các năm, góp phần duy trì và gia tăng kim ngạch xuất khẩu theo hướng bền vững.

Phương Lan, Ngọc Hoa thực hiện
Bình luận

Có thể bạn quan tâm