Thuỷ chung tà áo dài quê hương

Thuỷ chung tà áo dài quê hương

“Thủy chung tà áo quê hương” - là nhan đề bài Podcast hôm nay, bài viết của tác giả - Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Trên tấm phản gỗ gia truyền ở hiệu may Đức Trạch, khi nào cũng bộn bề hàng chục tấm vải và những bộ áo quần đang may cắt dở dang. Không biết bao nhiêu thế hệ thợ thuyền đã nhỏ những giọt mồ hôi âm thầm, nhuốm vào từng thớ gỗ mịn óng, tưởng chừng có thể soi gương...

Sáng sớm, trên thành phố Lương Văn Can có một người khách lạ mang trong mình hai dòng máu Việt Pháp. Người mẹ Việt của bà đã mất sớm. Lớn lên trên đất Pháp, lấy chồng Pháp, lập nghiệp tại Pháp, bà Daniel hầu như chỉ còn mang máng nhớ đôi ba từ tiếng Việt. Trong số đó, may mắn sao, có hai chữ: "Áo dài".

undefined
Người phụ nữ Hà Nội trong tà áo dài xưa

Tuổi ngoại 50, về thăm quê ngoại, tìm đến hiệu may Đức Trạch trên phố Lương Văn Can, có lẽ bởi bà Daniel còn nhớ những câu chuyện của người mẹ xa xứ thuở sinh thời về Hà Nội trong vầng sáng nơi ký ức.

Đức Trạch, chính là hiệu may ta cổ xưa, do người làng Trạch Xá mở vào những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 tại Hà Nội.

Thoạt kỳ thuỷ, hiệu chưa có tên. Trong hiệu, nay còn lưu hai tấm phản gỗ lim dài rộng khác thường. Chúng choán gần hết lòng nhà, tím sậm màu quá vãng... Đó là chỗ mà ngày ngày hàng chục người thợ may cặm cụi ngồi khâu vá, đính khuy, thêu hoa cho những tấm áo dài, áo cánh, áo bông cho khách hàng Hà Nội và các vùng quê lân cận.

Năm tháng như nước chảy, song đọng lại nơi miền phù sa ký ức, vẫn là những kỷ niệm tươi xanh. Rời xa ánh đèn sân khấu lộng lẫy đã từ lâu, nhưng đôi vợ chồng nghệ sĩ Vũ Dậu - Ngọc Hướng vẫn trân trọng lưu giữ những chiếc áo dài biểu diễn và cả tấm áo cô dâu hoa xanh trắng của người vợ từng một thời nổi danh tài sắc. Những chiếc áo dài Hà Nội đã từng theo chân nghệ sĩ ưu tú Vũ Dậu cùng bao nghệ sĩ nổi tiếng như Thanh Huyên, Tường Vy, Lệ Quyên, Tuyết Thanh, Thuy Quỳnh, Hoàng Mỹ, bay sang khắp thế giới. Ngày ấy, hầu hết chúng đã được cắt may từ cửa hiệu áo dài Mỹ Hào nhỏ bé ở số nhà 82 phố Cầu Gỗ.

Ở tuổi xấp xỉ bẩy mươi, ông Mỹ Hào không nhớ nổi trong cuộc đời làm thợ, ông đã từng cắt may bao nhiêu chiếc áo dài, áo kép, áo cánh, áo bông cho người Hà Nội. Tuy nhiên, chúng không thể dừng ở con số hàng trăm ngàn. Khách hàng thuộc giới tiểu thương, phụ nữ bình dân cũng rất mến mộ tài danh của ông Mỹ Hào. Và không chỉ người Hà Nội, mà người đâu xa cũng tìm đến.

Mỗi ngày, từ xưởng thợ gia đình của ông Mỹ Hào, có khoảng 20 đến 30 bộ áo dài được ra đời. Vào vụ cưới hay giáp tết, nhà càng đông khách hơn. Ông Mỹ Hào có bí quyết nhìn người mà áng cỡ dáng áo. Người vai xuôi may khác kiểu người vai ngang, người béo mập may khác kiểu người gầy mảnh. Bởi vậy phần nách áo, nơi khó nhất, vẫn thường là vừa sát thân hình người khách, không mấy khi bị lệch lạc, dúm dó. Ông Mỹ Hào cắt áo, bà Mỹ Hào và các con may áo, đơm khuy, vắt vạt.

Đến nay, 3 - 4 người con trai con gái nhà ông Mỹ Hào vẫn nối nghề. Cửa hiệu chính giao cho cô con dâu Thanh Bình. Một người con trai mở cửa hàng áo dài mới mang tên Mỹ Sơn ở số nhà 92 cùng phố Cầu Gỗ. Cô con gái tên Thanh Nga mở cửa hàng ở phố Nghĩa Dũng. Các cửa hàng đều cũng khá đông khách. Ông Mỹ Hào tuổi cao, bệnh nặng, thường về quê Trạch Xá an dưỡng. Thi thoảng, ông mới trở ra Hà Nội, ngồi dựa cửa ngắm những dòng xe cộ vùn vụt chạy qua dãy phố Cầu Gỗ đông đúc chật hẹp.

Cả bốn thế hệ phụ nữ gia đình nhà tôi, từ bà ngoại, mẹ, tôi và con gái tôi đều đã may áo dài từ chính cửa hiệu của ông Mỹ Hào. Đến nay, tôi vẫn còn giữ lại một số tấm áo dài Mỹ Hào của cả bốn thế hệ trong bộ sưu tập gia đình. Xế nhà ông Mỹ Hào trên phố Cầu Gỗ, có hiệu áo dài của ông Mỹ Vinh. Ông Mỹ Vinh là cháu họ của ông Mỹ Hào. Hiệu may Mỹ Vinh cũng khá đông khách, đa phần là các phụ nữ trung niên trong khu phố cổ và phố cũ tìm đến.

Không chỉ riêng khán giả màn ảnh nhỏ, mà ngay cả đồng nghiệp trong giới truyền hình cũng trầm trồ thán phục vẻ đẹp của những tấm áo dài mà phát thanh viên Thu Vân thường mặc trong các buổi lên hình. Có lần, Thu Vân "bật mí": áo của Thu Vân không phải đã được may từ những cửa hàng nổi tiếng ở Sài Gòn, Huế, Đà Lạt, hay từ những nhà may thời trang lớn, thường trưng tên trên các phương tiện thông tin quảng cáo ở Hà Nội. Những chiếc áo dài của Thu Vân và một số nữ đồng nghiệp trong Đài Hà Nội như Lệ Diễm, Thu Hiền, Quỳnh Hoa đã được may từ một cửa hiệu áo dài đơn sơ nằm trên phố Tạ Hiện, trong khu phố cổ. Đó là hiệu áo dài Xuân Đạm trên phố Tạ Hiện. Chủ cửa hiệu cũng là người làng Trạch Xá, và là em vợ của ông Mỹ Hào. Kém ông Mỹ Hào đúng một thập kỷ tuổi tác, và trước sau đều học nghề của ông chú họ Mỹ Thịnh trên phố Cầu Gỗ, song lúc ông Xuân Đạm ra nghề, lại là lúc đất nước đang lâm cảnh chiến tranh.

Phố Hà Nội vắng bóng áo dài

Mươi lăm năm trở lại lại đây, đất nước trên đà hưng thịnh. Hương sắc, tinh hoa của nền văn hóa truyền thống được khơi dậy và tỏa rạng. Cũng là lúc tay nghề của ông Xuân Đạm đạt tới độ chín. Trong cuộc sống gia đình, ông Đạm là người nghiêm khắc đến thành cứng nhắc, cẩn thận hóa thành khó tính. Trong nghề nghiệp, ông cũng vẫn giữ nguyên những tính cách hơi khác lạ so với nhiều người trong giới làm dịch vụ đời sống ở đô thị. Nhưng phải chăng, đó là cái duyên giữ khách kỳ lạ của người thợ lão luyện.

Xưa kia, ở mỗi làng quê vùng đồng bằng Bắc bộ, thường bao giờ cũng có một vài ông lang, bà đỡ, thầy đồ, phó mộc, phó rèn, phó may... để lo các dịch vụ cần thiết trong dân. Tương truyền, những ông phó may của làng Trạch Xá, xã Hòa Lâm, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây, nồi tiếng khéo tay và chăm chỉ, chịu khó.

Từ thời Lê - Trịnh, tiếng tăm của thợ may Trạch Xá đã vang xa tận kinh thành Thăng Long. Nhiều gia đình quan lại, thượng lưu nơi Kẻ Chợ đua nhau rước thợ Trạch Xá về nhà cắt may cho cả họ vào mỗi vụ giáp tết, hay lúc sắp có việc khao đãi, cưới xin.

Những lớp thợ Trạch Xá, trẻ ra Kẻ Chợ làm ăn, già lại về quê truyền nghề cho con cháu, giúp chúng nối bước lên phố lập nghiệp, ấy cũng là cái vòng sống đều đặn không mấy biến động giữa các làng nghề thôn quê với các phố nghề nơi thành thị từ bao đời.

Sang thời Nguyễn, người làng Trạch Xá lên Hà Nội phần lớn sống trong những ngôi nhà mặt sau khuất khúc của phố tơ lụa Hàng Đào sầm uất. Như thế, cốt để thuận tiện cho việc phục vụ khách khứa thị dân, khi họ đến mua vải vóc và đặt may áo quần. Sau Đức Trạch ở nhà số 6, thì Đông Trạch ở nhà số 20 phố Lương Văn Can cũng sớm nổi danh từ những năm đầu thế kỷ 20. Chủ hiệu là người họ Tạ. Cửa hàng Vạn Mỹ ở số 22 kế bên, cũng do một người họ Tạ đứng chủ. Trong vòng hơn ngót nửa thế kỷ, nhà họ Tạ có 5 anh em trai, 5 nàng dâu, thì trước sau đều theo nghề may ta.

Một ông thợ áo dài họ Tạ thuộc chi khác là ông Tiến Trạch thì mở cửa hàng ở 65 Phố Huế. Sau này, khi ông Tiến Trạch đến tuổi già yếu thì đã kịp truyền nghề cho ba cô con gái xinh đẹp. Đó là cô chủ hiệu áo dài Thanh Châu trên phố Mai Hắc Đế và hai người chị em gái ruột của cô là Hồng Anh trên phố Ngô Thì Nhậm, và Hồng Thanh trên Phố Huế. Các cô chính là thế hệ mới đang theo nghề áo dài truyền thống của làng quê với rất nhiều sự tiếp thụ những kiến thức thời trang áo dài hiện đại theo nhu cầu và thị hiếu của khách hàng Hà Nội thế kỷ XXI với những kiểu dáng áo dài đa dạng, phong phú song không hề làm mất đi những nét đẹp truyền thống của tà áo dài Việt Nam.

Chẳng riêng nhà họ Tạ của ông Vạn Mỹ, ông Tiến Trạch, nhà họ Lê của ông Mỹ Hào, hay nhà họ Nghiêm của ông Xuân Đạm, hàng trăm gia đình làm nghề may y phục dân tộc ở rải rác trên các phố Hà Nội, hầu như đều có mối liên hệ ruột thịt, họ hàng, thông gia, láng giềng thân thuộc, có chung một xuất xứ, gốc gác và cùng gắn kết với nhau trong hội đồng hương Trạch Xá.

Trong ký ức những người Hà Nội sống vào thời cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, cụ phó Dùi, người làng Trạch Xá nối danh là một ông thợ may tài khéo và đắt khách. Người ngày xưa may áo như thế nào? Khách chỉ cần đem chiếc áo cũ đến hiệu, ông thợ may Trạch Xá chỉ đo áo mẫu, rồi áng chừng khổ người bà khách béo lên hay gầy đi, mà gia giảm chút ít, thậm chí, khách không cần phải đến cửa hiệu, chỉ gửi áo mẫu là xong. Nhưng áo cắt lên thì thường rất vừa vặn, không mấy khi phải chữa chạy.

Được cái là người xưa vẫn thường may váy phòng lúc cả dạ, tức là khi mang bầu, nên không hay may sát khổ người như thời nay.Từ khi đất nước liền một dải, sau năm 1975, và nhất là trong thời kỳ kinh tế mở cửa, hội nhập, sau năm 1985, phong trào áo dài hồi sinh, phát triển mạnh mẽ. Đó là vận hội tốt cho phố Lương Văn Can, cho các gia đình thợ may y phục dân tộc Hà Nội và cho làng nghề Trạch Xá.

Thời gian vẫn như một dòng chảy không thể đổi ngược. Những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, cụ Nguyễn Văn Ớt là một tay kéo sắc nước trên phố Lương Văn Can. Là người thuộc thế hệ thứ 5 trong một gia đình chuyên nghề may ta, hơn nửa thế kỷ nồi danh xa gần, cụ là chủ tịch hội đồng hương Trạch Xá ở Hà Nội. Ở tuổi 76, cụ Ớt đã trở về làng cũ nghỉ ngơi, chức chủ tịch hội đồng hương Trạch Xá trao lại cho ông Mỹ Hào ở phố Cầu Gỗ. Dưới mái nhà đơn sơ có dàn mướp hoa vàng rủ bóng, trong bộ quần áo nâu giản dị, mái tóc và đôi lông mày bạc trăng, nom cụ như một bậc chân tu thoát tục.

Các con trai gái đều thành thục trong nghề, đường kim mũi chỉ đã nghe liền lạc, mịn ềm. Dấu cũ vết xưa vẫn có cháu con trân trọng tiếp nối, cho người đời vẫn nhớ danh thơm làng quê Trạch Xá, Đồng tuế, đồng niền với cụ Nguyễn Văn Ớt, cụ Lê Văn Quảng đã có sau lưng 70 tuổi nghề, bởi cụ lên phố học việc từ năm lên 6 tuổi.

Trời thương, vẫn cho cụ sáng đôi mắt, vững đôi tay, xâu kim thoăn thoắt, lát kéo ngọt êm, đường may phẳng phiu. Dưới một mái hiên rộng, bên sân thóc mới gặt thơm hương nắng mới, cụ đang tỉ mẩn truyền nghề cho lũ cháu nội ngoại, những mong chúng nối nghiệp tổ tiên lâu dài.

Xa xưa, người Trạch Xá chỉ truyền nghề cho con cháu trong nhà, trong họ, hiếm khi để lọt đến người ngoài. Song lâu nay, làng nghề cũng hòa chung với dòng chảy rộng lớn của thời đại mới. Thị trường áo dài ngày một sôi động, bà Thuấn, chủ hiệu may Quỳnh Dao bên chợ Trương Định đã tìm đến học thêm nghề áo dài ở cụ phó Thuận trên phố Lương Văn Can, khi bà đã có thâm niên gần 40 năm trong nghề may trang phục thông dụng ở Hà Nội. Khi bà Thuấn đã thành đạt trong nghề áo dài, thì cụ phó Thuận cũng đến tuổi quy tiên. Nhưng từ đó, bà Thuấn vẫn giữ mối quan hệ chị em, bạn hàng, bạn nghề thân thiết với gia đình cô Bở, ở khu tập thể Thanh Xuân Bắc. Cô là con dâu của cụ Thuận, và cũng chính là con gái cụ Ớt. Mỗi kỳ lễ tết, bà Thuấn không khi nào quên sang nhà thắp nén hương thơm tưởng nhớ ơn đức của người thầy quá cố tài khéo và nhân hậu. Bao năm say mê nghề áo dài, gắn bó thân thiết với người trong nghề, bà Thuấn như đã trở thành một người con của làng Trạch Xá Cùng với ngôn ngữ, trang phục là dấu ấn rõ nét nhất, đậm đà nhất của bản sắc mỗi dân tộc trên thế giới. Sau bao năm trăn trở suy ngẫm, hình như đã đến lúc chúng ta cần tới hình mẫu của những bộ quốc phục, lễ phục mang dấu ấn dân tộc Việt Nam. Ước sao, các nhà nghiên cứu, thiết kế mẫu sẽ chắt lọc được những nét đẹp tinh tuý, bền vững qua thời gian của bộ trang phục truyền thống, để thể hiện trong các sáng tác mới, nhằm đạt tới sự hài hoa giữa tính dân tộc và hiện đại.

Đúng ngày hẹn, phát thanh viên Thu Vân cùng người mẹ vốn là một nữ sinh cao đẳng sư phạm duyên dáng năm xưa, đến thử áo ở cửa hàng Xuân Đạm. Tác giả của những chiếc áo dài lần này không phải là người cha mà là cậu con trai ông, anh Xuân Dũng.

Năm nay, anh vừa bước qua ngưỡng tuổi tam thập, tam thập nhi lập. Lát kéo đường kim của anh dù đã rất thuần thục mà cũng vẫn khó có thể làm vừa lòng người cha, người thầy gần gũi mà rất khắt khe. Song mong cho con hơn cha, chẳng phải là tâm nguyện của riêng một nhà.

Năm 2004. Gia đình tôi chuyển nhà xuống làng Giáp Nhất quận Thanh Xuân. Hồi ấy khu vực này còn vắng vẻ lắm. Mỗi khi may áo dài, tôi vẫn phải tìm về khu phố cổ. Nhưng không lâu sau đó đã thấy xuất hiện một hiệu áo dài mới ở ngay phố Quan Nhân liền kề với Giáp Nhất. Thế nên việc may cắt áo dài với tôi, một tín đồ trung thành của áo dài lại trở nên quá thuận tiện. Hỏi ra thì anh chủ Minh Phương lại cũng chính là người quê gốc Trạch Xá.

Hiệu nhỏ ở phố hơi khuất nẻo, thế nên dù cắt may rất khéo nhưng anh cũng chỉ lấy công rẻ, chỉ bằng già nửa so với các hiệu may trên phố trung tâm Hà Nội. Sau này, anh Minh Phương đã trở thành thợ chuyên may áo dài đồng phục cho Đoàn thiện nguyện câu lạc bộ nhà báo nữ Việt Nam chúng tôi. Vải đồng phục cứ giao cả súc cho anh, ai đến may áo thì anh đo cắt cẩn thận. Còn hết bao nhiêu chẳng phải lo tính đếm thiếu thừa như những nơi này nơi khác.

Giờ đây, các nhà nghiên cứu mỹ thuật thời trang và các vị khách cầu kỳ có ý hướng phục cổ, muốn may một bộ áo dài theo đúng lối ngày xưa là áo 5 thân, vai liền, tay chắp, khuy tết thì cũng phải tìm về gia đình ông Thắng ở làng Trạch Xá. Ông Thắng cẩn thận rút chỉ chính những sợi lụa vải khách đem đến để khâu tay cho chính chiếc áo đó. Như thế để đảm bảo khi giặt là áo, áo không bị nhăn nhúm mà sẽ phẳng phiu vì chỉ may nào sẽ đồng bộ với lụa vải đó.

Trên tấm phản gỗ gia truyền ở hiệu may Đức Trạch, khi nào cũng bộn bề hàng chục tấm vải và những bộ áo quần đang may cắt dở dang. Không biết bao nhiêu thế hệ thợ thuyền đã nhỏ những giọt mồ hôi âm thầm, nhuốm vào từng thớ gỗ mịn óng, tưởng chừng có thể soi gương...

Tấm áo mà bà Daniel - Mactin đặt may đang ở những mũi kim chót cùng, gấp rút cho kịp ngày bà lên đường trở sang Pháp. Song trên tay anh thợ trẻ, những mũi chỉ vẫn đều đặn, mịn màng và óng nuột. Con người chỉ mang có nửa dòng máu Việt, sống xa đất Việt từ thuở còn trứng nước, sau nửa thế kỷ, vòng nửa trái đất quay về, ngóng chờ một tấm áo nơi quê mẹ, hẳn không chỉ để tránh ngăn những cơn băng giá của thiên nhiên khắc nghiệt phía trời xa.

Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Bảo tồn thú chơi địa lan giống cổ

Bảo tồn thú chơi địa lan giống cổ

BẢO TỒN THÚ CHƠI ĐỊA LAN GIỐNG CỔ - là nhan đề bài Podcast hôm nay, bài viết của tác giả - Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, nguyên Trưởng ban Văn hóa - Xã hội, Đài PT - TH Hà Nội. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Trong cái thời khắc khởi đầu năm mới, đất trời thanh sạch, nhẹ nhàng, năng mai phơ phất non tơ, những đóá lan xuân hé nở, vươn lên những cánh nhỏ mềm như lụa nõn, khoe sắc màu thanh tân trang nhã. Làn gió đông dịu dàng chợt đến chợt đi, mang hương hoa toả lan, phảng phất khắp không gian. Lòng người chợt xốn xang, xao xuyến lạ lùng. Và bỗng dưng người ta nảy sinh cái ước muốn được trao gửi, được sẻ chia tâm tình.

Ngôi nhà của ông Nguyễn Văn Chi và bà Triệu Thị Thái ở làng Định Công, quận Hoàng Mai nằm trong một khu vườn quanh năm rợp bóng xanh. Mùa hạ, ngõ vào nhà thơm ngát hương hoàng lan, mùa thu, dìu dịu hương quỳnh, hương quế. Hương hoa từ trên cao theo gió sớm, sương đêm, buông tỏả xuống mặt đất hiền hòa, tạo nên một bầu không gian thanh nhã và mộng mơ.

Nhưng qua ba tháng mùa đông khô cằn, khi những màn mưa xuân phơ phất vương bay trong trời đất, ngôi nhà của ông Chi lại chìm ngập trong một bầu hương thơm nồng nàn mà rất đỗi thanh tao. Ấy chính là hương thơm của hàng trăm chậu địa lan đang kỳ trổ hoa. Ông Chi mê đắm vì lan đã bao năm rồi không nhớ nổi: "Mỗi giống địa lan nó lại có dáng lá vẻ hoa khác nhau, hương thơm cũng thế. Hoàng vũ thơm ngọt, Mặc biên thơm ngát, Cẩm tố thơm dịu, Hoàng điểm thơm thanh... Chỉ nghe gió thổi từ xa xa đã biết khóm lan nào đang tỏa hương, Người cứ như đang bay lên mây ấy chứ".

Trong nền văn hóa cổ truyền các dân tộc Á Đông, sự vần chuyển của một năm thời gian vũ trụ được mã hóa bằng hình tượng các loài hoa quý giá và đặc sắc của bốn mùa: Xuân lan - Hạ liên - Thu cúc - Đông mai. Hoa lan mùa xuân, hoa sen mùa hạ, hoa cúc mùa thu, hoa mai mùa đông.

undefined
Hoa địa lan có nguồn gốc đầu tiên từ vùng Tây Nam Trung Quốc

Hoa lan, tự xa xưa đã được các bậc tiền nhân liệt vào hàng "vương giả chi hương" có lẽ không chỉ bởi chúng vốn được lưu truyền trong chốn cung vua, phủ chúa cao ngạo, thâm nghiêm, mà chính là bởi chúng mang thứ hương thơm không loài hoa nào trên thế gian sánh nổi. Tuy nhiên, ông cha ta tự xưa chỉ ngưỡng vọng các loài địa lan tức là các loại hoa được trồng trong đất, do tự tay người chăm sóc. Còn đối với các loài phong lan, tuy muôn hình vạn trạng, thắm sắc, đượm hương, thì cũng vẫn chỉ là cây rừng hoa núi, hoang sơ, lạ lẫm. Người ta yêu địa lan không chỉ bởi sắc đẹp và hương thơm của chúng, mà còn bởi vì, chúng là những tác phẩm nghệ thuật phụ thuộc vào chính bàn tay kinh nghiệm và sự sáng tạo của những người yêu hoa.

Vậy mà, trong vòng nửa thế kỷ qua, người Hà Nội chỉ loáng thoáng nghe nhắc đến hoa lan qua câu tục ngữ: "Làm chúa chơi lan, làm quan chơi trà" hoặc là qua áng văn chương tuyệt mỹ của nhà văn người Hà Nội gốc, nổi tiếng hào hoa, lịch lãm Nguyễn Tuân:

"Vang bóng một thời". Trong những câu chữ được gọt giũa cầu kỳ đến mức điêu luyện ấy, vẫn đau đáu nỗi niềm của một kẻ nặng lòng hoài cổ, đang thả hồn chìm đắm trong những dòng hồi ức lung linh, kỳ ảo, nhớ về vẻ đẹp của thời quá vãng xa xôi tưởng sẽ không bao giờ sống dậy, chỉ còn lại đôi ánh hào quang mờ dần trong niềm tiếc nối khôn nguôi.

Thế rồi, khi nhắc tới khái niệm dân dã như ngọc lan, hoàng lan và sau này, khái niệm đó được làm giàu thêm bởi trăm loài phong lan hoang dã cùng những giống hoa lan được nuôi trồng theo phương pháp công nghiệp hiện đại thì dường như không có tên tuổi bất kỳ một loài hoa địa lan cổ truyền nào lọt vào trong trí não những đứa trẻ Hà Nội sinh ra ở cái thời gian khó dằng dặc ấy.

Thì bỗng đâu, cũng thầm lặng, nhẹ nhàng như là trong khoảnh khắc lìa xa năm xưa, vào một sớm đầu xuân mới, dưới làn nắng nhẹ vương tơ, thấp thoáng hiện lên những dáng vẻ, những sắc màu như lạ như quen. Lan Hoàng Vũ như cơn mưa màu cốm non, lan Hoàng Điểm hoa nâu chấm vàng như gấm thêu, lan Cẩm Tố hanh vàng, cành vươn, cánh dài thon thả, thanh thoát như đôi cánh tay vũ nữ vút bay trong điệu khúc thần tiên.

Và người Hà Nội, cũng như chợt tỉnh giấc mơ, mừng rỡ đón chào những nàng tiên lan, những nàng tiên chỉ hiện hình trên thế gian, dưới một bầu trời bình yên, sán lạn, và chỉ khoe hương sắc bên những con người không mấy còn cay cực, vật vã bởi cuộc mưu sinh khốn khó. Hà Nội trong những năm cuối thế kỷ XX, dường như đã thoáng hiện dáng vẻ của một chốn địa đàng sơ khởi mà bao lớp người chúng ta từng mơ ước

Và cứ như thể đã quen biết tự trăm năm, người Hà Nội đã không lấy làm lạ lẫm khi gọi tên hàng chục hàng trăm loài địa lan quý hiếm đang tụ hội trở về đất kinh kỳ ngàn tuổi. Nào là Bạch Ngọc, Thanh Ngọc, Thanh Trường, Ngân Biên, Mạc Biên, Cẩm Tố, Hoàng Vũ, Hoàng Điểm, Tiểu Kiều, Đại Kiều... Những tên hoa cao sang, mỹ lệ đến thế mà lạ không, tưởng như ta đã từng biết đến trong những giấc mơ xa.

Nghe người ta nói, thì hoa lan có tới vài ba trăm loài, với hàng ngàn cá thể khác nhau. Song những dòng lan lưu truyền tại Hà Nội tương truyền có nguồn gốc từ hoàng thành, vương phủ, nên chúng mang hương thơm quý giá hơn hẳn địa lan ở các vùng miền khác trên đất nước. Bởi thế, chúng được giới chơi lan mến chuộng tha thiết.

Cho đến bây giờ, vườn cảnh nhà nghệ nhân Lê Quyết Bội tại làng Nghi Tàm, bên bờ hồ Tây cũng chỉ có dăm bẩy chậu lan bầy rải rác quanh bể nước non bộ trước sân nhà. Lão nghệ nhân, tóc bạc trắng, thong thả cầm chiếc bình đồng nhỏ, khẽ khàng tưới nước vào từng chậu lan. Ngày xửa ngày xưa, cả một dải đất rộng lớn bên hồ vốn là thủỷ thổ của các loài địa lan cổ truyền...

Bằng một giọng nói trầm trầm, nghệ nhân đà đận kể: Lan là một loài cây rất kỹ kén đất. Vào mùa hanh khô, người ta tát ao, vét bùn. Gạt đi lớp bùn hoa trên mặt, người ta xắn lớp bùn thứ hai đem phơi khô trên sân nắng. Chừng độ ba bốn, thậm chí cho tới sáu tháng sau, khi bùn khô nẻ, hết sạch tạp chất, sâu bọ, người ta mới đem đập vỡ, sàng lọc, để đưa lên chậu trồng lan. Bởi vì rễ lan ưa thoáng khí và thoát nước.

Nghệ nhân Nguyễn Luân, một nhà làm hoa chuyên nghiệp của làng Nghi Tàm lúc nào cũng tha thiết với địa lan giống cổ:

- Người xưa truyền lại rằng, lan cũng như trà, tựa như các nàng phi tần, quận chúa, tiểu thư khuê các, hiếm khi lộ diện bên ngoài dưới ánh sáng mặt trời gay gắt, sỗ sàng. Lan thường quen ẩn mình dưới tán lá rợp hay giàn thưa che nắng, như người đẹp núp bóng quân vương mà khoe hương sắc.

Chuyện xưa kể lại rằng, những khóm hoa trong cung vua phủ chúa sở dĩ tốt tươi, ấy là bởi hàng ngày chúng được các cung tần mỹ nữ dốc công chăm sóc. Chờ khi lan trổ hoa, các nàng sẽ có cơ hội đón rước đấng quân vương đến ngự lãm. Do chậm sinh sôi, nảy nở, nên lan phải được chăm sóc tỉ mỉ, chu đáo và kỹ lưỡng.

Tuy nhiên, do là thứ cây khó tính, nên việc chăm sóc cũng phải vừa mức, tránh sự bất cập cũng như thái quá. Phân bón cho lan cũng không thể tùỳ tiện, phải ngâm ốc và cá vụn trong nước khoảng độ nửa năm cho hoai hết mùi hôi, rồi mới pha loãng mà tưới cho lan.

Chớ bao giờ nghĩ tới việc có thể dùng phân hóá học hay thuốc kích thích sinh trưởng. Thế thì thà trồng rau mà hái lá nấu canh.

Nghệ nhân Nguyễn Ninh ở làng Nghi Tàm, người sở hữu một vườn trà lan nức tiếng trong giới chơi hoa xứ Bắc với những khóm lan đắt giá tới hàng chục triệu đồng là một bậc cao thủ trong kỹ nghệ trồng và chăm sóc những giống địa lan giống cổ được cha ông truyền lại:

- Khách đến tham quan thì nhiều chứ mua bán thì không mấy.

Được giá thì vợ chồng tôi bán, không thì lại để chơi xuân. Tiền cũng quý nhưng lan còn quý hơn ấy chứ. Bán đi gây lại chả dễ trong cái thời tiết khí hậu ô nhiễm thế này. Lan giờ đây dễ bị nấm bệnh. Chữa bệnh cho lan có khi còn khó hơn chữa bệnh cho người. Lá lan hễ cứ xuất hiện một vài chấm đen là kém đi vẻ đẹp toàn bích. Người chơi mất hứng luôn. Một nhánh lan lụi đi thì ruột xót như muối vậy.

Mặc dù hoa lan mỗi năm chỉ nở có một lần, song kỳ hoa kéo dài chừng vài ba tháng, như thế, hương sắc của nó đã kịp trở thành niềm thân yêu quấn quýt khó rời. Hương hoa lại tuỳ theo thời khắc hay hướng gió mà tỏa lan gần xa, lúc thắm thiết, sực nức, khi lại nhạt nhòà xa xôi, như mơ như thực, như có như không. Bởi vậy càng khiến cho kẻ yêu hoa thêm say đắm, chờ đợi, ngóng trông.

Còn nhớ trong khúc Tỳ Bà Hành nồi tiếng, khi cô gái đẹp bến Tầm Dương buông tay đàn ngưng lặng trên mặt sông đêm, nhà thơ Đường Bạch Cư Dị đã thốt thành lời:

Thử thời vô thanh thắng hữu thanh

(Lúc này lặng tiếng còn hơn cất tiếng)

Cái khoảnh khắc lan ngừng tỏả hương giữa hai đợt gió, cũng có thể ví như thế chăng?

Hoa lan có nhiều chủng loại. Mỗi loại thường chọn mùa trổ bông khác nhau. Có thứ lan nở mùa xuân, có thứ lan nở mùa hạ, song có thứ lan nở về mùa thu hay mùa đông. Lại có thứ lan nở cả bốn mùa. Các cụ ta khó tính, giới sĩ phu Bắc Hà vốn thế, vẫn chê lan tứ thời là thứ dễ dãi, rẻ tiền, như những kẻ xu phụ tiểu nhân ngoài xã hội, không biết giữ phẩm giá tư cách trong sự đổi thay của thời thế. Nói như vậy, quả là cũng oan uổng cho hoa. Song đã gọi là nghệ thuật, là thú chơi, có mấy khi và có mấy ai lại không thiên lệch một đôi phần.

Trong cái thời khắc khởi đầu năm mới, đất trời thanh sạch, nhẹ nhàng, nắng mai phơ phất non tơ, những đóa lan xuân hé nở, vươn lên những cánh nhỏ mềm như lụa nõn, khoe sắc màu thanh tân trang nhã. Làn gió đông dịu dàng chợt đến chợt đi, mang hương hoa tỏả lan, phảng phất khắp không gian. Lòng người chợt xốn xang, xao xuyến lạ lùng. Và bỗng dưng người ta nảy sinh cái ước muốn được trao gửi, được sẻ chia tâm tình.

Hàng năm, vào một ngày xuân đẹp trời, lan trong vườn nở rộ, nhà chủ thường mời gọi dăm ba người bạn chí cốt, thuộc diện “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” đến chơi nhà. Khách gần, khách xa, đều không thể bỏ lỡ dịp may hiếm có trong năm.

Người ta ví, chăm được một chậu lan quý cũng tựa như chinh phục được một cô gái đẹp. Cuộc chinh phục càng khó khăn thì chiến công càng vẻ vang, và kẻ chiến thắng càng thêm phấn khích, tự hào.

Có lẽ bởi vậy mà trong giới chơi hoa, mới nảy sinh thú vui trưng hoa, thưởng hoa, bình hoa. Để mà ở đó, người ta có dịp kể lể, tán tụng, so sánh, phẩm bình về vẻ đẹp và hương thơm của từng khóm lá, từng dò hoa. Xưa nay, trong muôn loài hoa cảnh, chỉ có hoa lan, thứ hoa "vương giả chi hương" mới xứng đáng được chủ hoa mở tiệc đón mừng, khao đãi. Thành ngữ "bữa tiệc thưởng hoa" ra đời từ đó cũng nên.

Thực ra, cái đáng quý nhất ở các loài địa lan chính là hương thơm của chúng. Tự xưa, đối với dân các nước Á Đông thì ngay cả trong các khái niệm thuộc về mỹ cảm, cũng nặng chất duy lý. Tuy hướng đến sự toàn bích, tận thiện, toàn mỹ, song nếu xét nét riêng, thì cái sắc cái hình vẫn không thể sánh nổi cái thanh, cái hương.

Bởi thế, tuy hoa trà, hoa mẫu đơn được bầu là chúa các loài hoa mà các bậc tiền nhân, vẫn coi chúng là những thứ hữu sắc vô hương, chẳng coi trọng tôn thờ như đối với các loài hoa mang hương thơm như thuy tiên, địa lan.

Tuy mỗi giống địa lan đều có hương thơm đặc trưng riêng khó lẫn, nhưng tựu trung hương thơm của hoa lan rất dịu dàng và thanh tao, nhẹ nhõm và tinh khiết. Lại nói, trong cuốn truyện vang bóng một thời, nhà văn Nguyễn Tuân đã từng miêu tả sự tinh tế đến mức quá kỳ cầu, sự sang trọng đến mức quá cao xa của thú chơi hoa lan, nhất là khi các bậc tiền nhân tố chức một bữa tiệc thưởng hoa.

Chờ khi trong vườn có đôi dò lan hé nở, nhà chủ thường lấy mươi tờ giấy tốt, làm khung nứa mỏng, nương theo chiều cao của ngọn hoa mà phất đôi ba chiếc lồng bàn nhẹ. Thế rồi dâu gai trong nhà phải rửa sạch từng viên đá cuội trắng tròn, đem tẩm kẹo mạch nha nấu từ mầm lúa nếp, xếp vào những đĩa nhỏ, bầy quanh gốc lan, đậy lồng bàn cho kín. Sau một ngày đêm ủ hương lan như thế, nhà chủ mới mở tiệc trà hay rượu, mời đôi ba người bạn tri âm tri kỉ đến thưởng hoa, và ngâm vịnh thơ phú, bình luận văn chương.

Chao ôi! Cái thú chơi cao sang đến vậy, thì làm sao có thể tồn tại nổi trong mấy mươi năm chiến tranh giặc giã, Tây Tàu nhộn nhạo, mới cũ bất phân. Nhà văn kiêm dịch giả Nguyễn Hà, cộng tác viên thân tín mảng văn hóa Hà Nội cho các báo đài thủ đô có lúc rất ngậm ngùi:

- Mấy chục năm chiến tranh bao cấp Hà Nội khổ quá. Người dân lo ăn chả đủ nói gì đến thú chơi. Bao nhiêu thứ hoa cảnh, chim chóc cứ lay lắt rồi tàn lụi mất mát dần. Tiếc sao mà tiếc! Dẫu bây giờ có khôi phục lại cũng sẽ chuệch choạc lắm. Vì các cụ cao niên tinh sành đã theo nhau trước sau đi xa hết. Sách vở thì chả có mà dẫn truyền.

Vậy mà chỉ chừng sau mươi năm khi chiến tranh kết thúc, non sông thống nhất cuộc sống trở lại thanh bình no ấm, thì theo đó, thú chơi hoa lan cũng như thú chơi hoa cảnh chim cá quý hiếm như thủỷ tiên, trà hoa, hoạ mi, chim yến, đã phục hồi một cách nhanh chóng.

Gần đây, giới yêu hoa ở Hà Nội gồm các bậc văn nhân, trí giả, nghệ nhân cây cảnh, các bậc cao niền và cả những người trẻ tuổi, đã dần dần nhóm họp thành những hội chơi nhỏ. Họ thường đi lại thăm thú vườn tược hoa cảnh lẫn nhau, bàn bạc hỏi nhau cách thức chọn giống, chăm sóc phòng bệnh cho hoa, tìm tòi sưu tập thêm những giống hoa lan quý hiếm, mới lạ. Và họ coi đó là niềm vui đích thực, là những khoảng thư giãn cần thiết, là sự dinh dưỡng tinh thần hữu ích trong cuộc sống còn bộn bề lo âu vất vả hôm nay.

Gia đình ông bà Chi - Thái ở làng Định Công, quận Hoàng Mai cứ mỗi mùa hoa nở lại mở tiệc khao đãi đôi lần. Khách gần khách xa nườm nượp kéo đến. Văn nhân, nghệ sĩ, thương gia đều hiện diện.

Có các cụ cao niên trên phố cổ, lại thêm các chàng thanh niên nông dân mới vào nghề trồng lan. Xem hoa, ngắm lá, thưởng hương, trầm trồ, bàn luận sôi nổi. Cụ Đặng Trường Lâm tuổi ngoại bẩy mươi, nhà ở phố Nguyễn Trường Tộ, râu tóc bạc trắng nhưng đôi mắt vẫn rất tinh anh, giọng nói sang sảng:

- Trên phố bây giờ làm gì ai có nổi khu vườn lan trà rộng lớn như thế này. Cũng khó ai sưu tập đủ hầu hết các giống địa lan cổ như nhà ông Chi đây. Tôi thích nhất chậu lan Hoàng điểm này. Hoa như gấm thêu, lá xanh toàn bích không một nốt đen vết xước nào. Hoa này còn chơi hằng tháng nữa cũng chưa tàn.

Ông Nguyễn Văn Hùng, kỹ sư trồng trọt của sở nông nghiệp Hà Nội cùng mấy cậu thanh niên trẻ xúm xít quanh khóm lan Ngân biên trổ hoa nâu phớt ánh vàng thâm trầm, quý phái:

- Quanh năm ông bà Chi - Thái chăm chút, bón tưới, phòng bệnh rất vất vả. Nhưng khi hoa nở khắp vườn lại mời gọi anh em đến thưởng lan, chia vui. Mọi người học thêm được ở ông bà nhiều kinh nghiệm nhân giống, chăm sóc, đánh giá lan rất quý giá. Chậu Ngân biên này chẳng hạn, hiếm lắm đấy, lá nó xanh trong lòng mà viền hai viền trắng hai bên, rất điệu đà.

Nghệ nhân Nguyễn Luân, một trong ba nghệ nhân địa lan giống cổ tại làng Nghi Tàm ở tuổi ngoại tám mươi vẫn lưu giữ bên hiên nhà mấy khóm lan quý Hoàng Vũ, Thanh Trường, Mạc Biên:

- Tôi chỉ chơi lan giống cổ truyền, tự nhân giống, tự chăm bón.

Nhưng tôi già yếu rồi nên cũng chả có sức được như xưa. Mươi năm nay bên Trung Quốc người ta mang giống lan của mình về bên ấy nhân ra trong phòng thí nghiệm rồi đem trở về Việt Nam bán nhiều lắm, giá rất rẻ. Nhưng lan đó hoa mảnh, sắc nhạt mà mùi hương lại nhạt nhòa, chỉ chơi được một mùa rồi tàn lụi dẫn. Sao bằng hoa bên ta được.

Vườn lan của nhà anh Nguyễn Vinh Dũng ở làng Nhật Tân cũng là một địa điểm đầy sức thu hút giới chơi lan ở Hà Nội và cả các tỉnh ngoài Bắc, trong Nam. Anh chị có một lối chơi lan rất cao ngạo. Nếu không gặp được khách mua đúng ý, không đáng chỗ trao gửi những đứa con yêu dấu, anh chị Dũng thà để lại vườn, mỗi tuần cắt vài chục giò trưng trong chiếc bình lớn, khiến không gian trong nhà ngoài vườn đều thơm nức như trong động tiên.

Một người cùng thế hệ chơi lan với anh Dũng Nhật Tân, thế hệ ngõ hầu có thể tiếp nối thế hệ chơi lan lão niên của Hà Nội như cụ Ninh, cụ Bội, cụ Luân, ông Chi, đó chính là vua lan Trần Tuấn Anh ở Đình Thôn, Nam Từ Liêm. Trong khuôn viên vườn lan rộng hàng nghìn thước vuông mát rượi luôn đan cài hai ba tầng hoa cao thấp. Hàng nghìn khóm phong lan, địa lan, thạch lan mùa nào cũng ngập tràn màu sắc. Ban đầu khi bước chân vào thú chơi lan,

Tuấn Anh nghiêng về phong lan, thạch lan. Trong đó có tổi 5 loại lan mà anh kỳ công sưu tập từ các miền rừng sâu núi thẳm khắp đất nước và đã được các nhà nghiên cứu lan trên thế giới đặt tên là Lan Tuấn Anh. Sau dần, qua thời gian, các giống hoa địa lan giống cổ Hà Nội vừa khiêm nhường vừa kiêu hãnh cũng đã chinh phục Tuấn Anh từ vẻ đẹp thanh tao và hương thơm huyền diệu của chúng. Hơn thế, thú chơi địa lan giống cổ còn chinh phục Trần Tuấn Anh bằng ý nghĩa tinh thần cao sang lịch lãm của văn hóa cổ truyền người kinh kỳ Thăng Long Hà Nội.

Đã lâu lắm rồi, kể từ thời đi thăm vườn lan của nghệ nhân Lê Quyết Bội trên Nghi Tàm từ vài mươi năm trước cho đến gần đây, tôi mới được gặp lại một vài cụm lan Thanh Ngọc vô cùng quý hiếm tại vườn lan Trần Tuấn Anh. Anh đang cùng những người bạn cộng sự đêm ngày cần mẫn nhân lên giống địa lan quý hiếm ấy. Tuy nhiên không phải qua vài ba năm mà đã được như ý. Mặc dù giá mỗi nhánh lan thanh ngọc trên thị trường hiện nay lên đến vài ba triệu đồng thì các chủ hoa cũng chả thể làm sao cho nó phát triển nhanh như các loại lan nhân giống trong phòng thí nghiệm để trở thành lan thương mại đại trà trên thị trường. Cái khó và cái quý lại là ở chỗ chậm chạp khác thường của địa lan giống cổ.

Tuấn Anh mê lan đến thành giai thoại trong làng hoa. Mê đến nỗi lấy cô vợ nào thì cô vợ ấy cũng đều mà bỏ đi vì không chịu nồi cảnh anh chồng chăm lan hơn chăm vợ, yêu lan hơn yêu vợ. Tam tứ phen rồi đó chứ không phải ít. Muốn truyền đam mê hoa lan cho các con mà chúng lại thờ ơ, bỏ bễ. Đứa sang Mỹ sinh sống đã đành, đứa ở lại Việt Nam cũng thế nốt. Rốt cuộc là chỉ còn có mình Tuấn Anh ở lại giữa vườn lan với những người giúp việc xa lạ và một bầy chó dễ đến vài chục con ngày đêm sủa nhăng nhẳng canh vườn lan quý. Vườn lan Tuấn Anh thuê đất tại Đình Thôn, Nam Từ Liêm đã mấy chục năm nay, nhưng sang năm Tân Sửu 2021 sắp bị chủ đất bắt di dời để lấy đất xây nhà. Vua lan muốn có một khoảnh đất riêng ở ngoại thành để lập vườn lan mới, nhưng chả có cấp thẩm quyền nào chịu chứng nhận cho anh là đang sản xuất nông nghiệp để bán đất quy hoạch trang trại cho. Thế mới khó thay! Tuấn Anh ngậm ngùi lắm:

- Các cụ cao niên làng lan xứ Bắc đã đi xa gần hết. Đến thế hệ tôi thì chỉ có một vài người. Khá là đơn độc. Các bạn trẻ tham gia thú chơi lan hiện nay cũng đông đúc, giỏi giang lắm. Nhưng đa phần các cậu ấy chỉ quan tâm đến việc kinh doanh kiếm lợi với những giống lan thời thượng chiều đãi thị hiếu đám đông, chứ không mấy ai mặn mà với việc sưu tập, bảo tồn, phục tráng các giống lan cổ truyền của cha ông. Đó là sự thực.

Lâu nay, nếu như giới chơi phong lan đang bị cuốn hút vào những dòng lan đột biến giá tiền bạc tỷ thì giới chơi địa lan lại đang bị hấp dẫn bởi những dòng lan kiếm (dòng lan lá to hình giống chiếc kiếm) mới sưu tầm được tại những vùng rừng sâu núi thăm của Việt Nam và các nước Đông Nam châu Á.

Trước nhu cầu thị trường địa lan càng phát triển, mở rộng, các nhà khoa học đầu ngành trồng trọt ở nước ta cũng chẳng thể thờ ơ, nếu như không nói rằng, nhu cầu đó cũng tạo lập một cơ hội tốt cho họ thể hiện sự tinh nhạy và tài năng chuyên môn. Bắt đầu từ năm 1997, Trung tâm Hoa cây cảnh thuộc Viện di truyền nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành đề tài khoa học nghiên cứu phát triển các loài hoa địa lan thơm Hà Nội. Chị Phạm Thị Liên là người được giao chuyên nghiên cứu về đề tài nhân giống vô tính trong phòng thí nghiệm để đưa ra trồng đại trà các giống lan quý cổ truyền dân tộc. Đó chính là đề tài bảo vệ luận án tiến sĩ của chị hoàn thành tốt đẹp vào năm chuyển giao thế kỷ, năm 2000. Tuy nhiên, đề án cũng chỉ dừng ở một vài giống lan thông dụng như lan

Hạc đính, lan Trần mộng chứ chưa đạt số lượng như mong muốn với những giống lan quý hiếm của cha ông.

Kể thêm hầu quý vị một câu chuyện nhỏ. Tôi vốn gắn bó với làng trẻ mồ côi SOS Hà Nội tại Mai Dịch từ khi làng trẻ mới hình thành vào đầu thập niên cuối cùng của thế kỷ trước, thấm thoắt đã hơn ba mươi năm. Ngôi nhà Hoa Phượng trong làng trẻ là nơi tôi nhận đỡ đầu một cháu nhỏ mồ côi cho nên với tôi là thân thiết nhất. Người mẹ của nhà Hoa Phượng tên là Ngô Thị Sinh. Mẹ Sinh sinh năm Ất Mão 1975. Chị cũng như tất thảy các bà mẹ SOS, đều là những người phụ nữ tình nguyện không xây dựng hạnh phúc lứa đôi để trọn đời cống hiến cho sự nghiệp nuôi dưỡng trẻ mồ côi cơ nhỡ. Mẹ Sinh không chỉ nuôi dạy các con rất khéo léo mà còn có tài trồng rau quả cho các con ăn hằng ngày và chăm hoa cảnh trang trí khuôn viên quanh năm rất giỏi. Tại mặt trước ngôi nhà Hoa Phượng, mẹ Sinh trồng đầy phong lan, địa lan. Mùa xuân đến, hoa nở rạng rỡ, hương thơm ngào ngạt. Nói thì bảo buồn cười, nhưng trong đó tôi rất thích mấy khóm địa lan vào hạng bình dân nhất, giới sành chơi lan chả bao giờ đoái hoài đến, nhưng vẫn nở hoa tím ngát, đẹp đến nao lòng, ấy là hoa Chu đinh lan. Mẹ Sinh thấy mỗi lần tôi vào làng trẻ cứ mê mẩn ra ngắm vào trông nên vồn vã:

- Chu đinh lan thường lắm chị ạ. Trồng cho đẹp mắt thôi. Để em gửi biếu chị mấy giò lan thơm chị chơi nhé!

- Ấy không! Chị đi suốt, có thời gian đâu mà chăm hoa. Nó lụi đi thì phí lắm em ạ. Thi thoảng chị vào chơi với mấy mẹ con và xem ngắm là vui rồi. Chăm hoa phải có tay, chứ có phải ai muốn là cũng được đâu.

Những thú chơi cổ truyền thanh lịch hào hoa cứ dần dần sống lại, chẳng cần đến một cuộc hô hào vận động rầm rộ tốn kém nào, phải chăng chúng cũng chính là những tín hiệu có giá trị đích thực từ một cuộc sống vật chất và tinh thần ngày một sung túc và hài hòa của người Hà Nội hôm nay./.

Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Không được làm trái với nghĩa vụ người Đảng viên

Không được làm trái với nghĩa vụ người Đảng viên

“Không được làm trái với nghĩa vụ người Đảng viên" là nhan đề bài viết của tác giả Công Minh, Báo Công Thương xin được gửi đến quý vị khán giả trong chương trình Podcast ngày hôm nay.

Bài viết:

Lịch sử 95 năm Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trưởng thành, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã chứng minh: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên”.

Vai trò gương mẫu của đảng viên xuất phát từ vị trí hết sức quan trọng của đảng viên của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định mọi công việc của Đảng đều do đảng viên làm; mọi nghị quyết, mọi khẩu hiệu, kế hoạch của Đảng đều do các đảng viên chấp hành, triển khai thực hiện. Người cũng nêu rõ mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng nhân dân.

Từ vai trò, vị trí quan trọng đó, đòi hỏi đảng viên phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình, không được làm trái với nghĩa vụ đảng viên. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không giữ vững kỷ luật của Đảng, không kiên quyết chấp hành chính sách và nghị quyết của Đảng, không thiết tha quan tâm đến lợi ích của Đảng - là trái với nghĩa vụ đảng viên”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta thường xuyên nhấn mạnh đến vấn đề kỷ luật Đảng, khẳng định sức mạnh vô địch của Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam chính là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ và đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: Đảng ta là một đảng cầm quyền, phải giữ gìn Đảng thật sự trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân và muốn được như vậy thì mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

undefined

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ sống còn của Đảng là phải không ngừng xây dựng chi bộ tốt, đảng viên tốt

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn có những chủ trương, giải pháp tích cực, hiệu quả để đảng viên thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của mình. Cụ thể: Đảng phải ra sức tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên. Trong Đảng phải luôn nghiêm chỉnh thực hành phê bình và tự phê bình, Đảng phải hoan nghênh, khuyến khích, tạo thuận lợi để quần chúng nhân dân thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Đồng thời, phải thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt của chi bộ, giữ nghiêm minh kỷ luật của Đảng và thực hiện chặt chẽ công tác kiểm tra của Đảng.

Trước hết, đội ngũ đảng viên cần thật sự tự giác, rèn luyện phấn đấu cả trong lời nói cũng như việc làm, ở mọi lúc, mọi nơi, trở thành những gương sáng để quần chúng nhân dân noi theo. Từng đảng viên cần chú ý khi có thành tích, kết quả tốt thì không chủ quan, kiêu ngạo; khi có khuyết điểm thì phải thẳng thắn chỉ ra và tích cực sửa chữa, khắc phục để tiến bộ. Đặc biệt, hiện nay, nhiều cán bộ, đảng viên đã phát huy vai trò chủ động, tích cực tuyên truyền, vận động để gia đình, người thân cùng gương mẫu, làm tốt theo Quy định số 144-QĐ/TW ngày 9/5/2024 của Bộ Chính trị khóa XIII về chuẩn mực đạo đức cán bộ, đảng viên trong thời kỳ mới.

Cùng với nỗ lực tự giác rèn luyện phấn đấu của mỗi cán bộ, đảng viên thì rất cần sự vào cuộc, đồng hành, giúp đỡ của các tổ chức đảng, hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ sống còn của Đảng là phải không ngừng xây dựng chi bộ tốt, đảng viên tốt. Người yêu cầu các tổ chức đảng, hệ thống chính trị và nhân dân “có cơ chế chính sách, quy định, cách làm phù hợp, tích cực, tạo thuận lợi, giúp đỡ, đồng hành cùng cán bộ, đảng viên trong tiên phong, gương mẫu. Trong đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến việc giúp đỡ cán bộ, đảng viên vượt qua sai phạm, khuyết điểm. Người nhắc nhở: “Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ và để dạy bảo cán bộ và đảng viên”.

Trong khi đó, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại tăng cường các hoạt động chống phá xuyên tạc về đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Chúng xuyên tạc, bịa đặt trên mạng xã hội rằng, đảng viên cộng sản đều hư hỏng, không chịu rèn luyện, phấn đấu, không còn uy tín với nhân dân. Thậm chí chúng còn trắng trợn, kích động, kêu gọi trên mạng xã hội: Cộng sản là thảm họa cần phải có vũ khí để chống lại…

Nhưng cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân luôn hiểu rõ bản chất thâm độc, xấu xa của những kẻ xuyên tạc, chống phá. Vì vậy, cán bộ, đảng viên vẫn làm tròn nghĩa vụ phẩm chất, đạo đức, uy tín của người đảng viên, vẫn giữ được uy tín trong nhân dân và quần chúng nhân dân vẫn vững vàng tin yêu, kiên định tiến lên trên con đường cách mạng tươi sáng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, nhân dân đã lựa chọn với mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cán bộ, đảng viên đã và đang tiếp tục phấn đấu làm tốt trách nhiệm, nghĩa vụ, tình cảm của mình với Đảng, nhân dân, đất nước, theo tinh thần Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra: “Hơn lúc nào hết, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu thực hiện nhiệm vụ trên tinh thần đặt lợi ích chung lên trên hết, mạnh dạn đổi mới, sáng tạo, đột phá, dũng cảm hy sinh để đất nước phát triển”.

Nội dung Podcast của chúng tôi đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Đi lễ chùa ngày Tết - một nét đẹp văn hóa tâm linh cần gìn giữ

Đi lễ chùa ngày Tết - một nét đẹp văn hóa tâm linh cần gìn giữ

“Đi lễ chùa ngày Tết của dân tộc Việt Nam - một nét đẹp văn hóa tâm linh cần gìn giữ” là nhan đề bài viết của PGS. TS. Phan Thị Hồng Xuân mà chúng tôi muốn gửi đến quý vị khán thính giả. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Hiểu và trân trọng các giá trị văn hóa của việc đi lễ chùa nói chung đi lễ chùa đầu năm nói riêng, hiểu được các giáo lý của Phật giáo sẽ giúp cho người dân nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xây dựng nếp sống văn hóa văn minh đô thị.

Trong văn hóa Việt Nam, "chùa" là hình ảnh gần gũi, thân quen với đại đa số người dân không kể già trẻ, lớn bé, tôn giáo, tín ngưỡng, thành phần dân tộc. Từ ca dao tục ngữ đến các tác phẩm văn học, các ca khúc, ngôn ngữ từ bình dân đến hàn lâm đều góp phần khẳng định vai trò và ảnh hưởng của Phật giáo trong văn hóa Việt Nam.

Ví như:
"Đồng đăng có phố Kỳ Lừa,
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh".
Hay:
"Em đi nhớ lũy tre làng
Nhớ ngôi chùa cổ, nhớ hàng cau xanh
Đêm rằm trẩy hội cùng anh,
Mãi vui quên tỏ cùng anh đôi lời!".

Tinh thần cầu nguyện của người Phật tử khi đi chùa

Hình ảnh ngôi chùa là hình ảnh gần gũi thân thương nhất của bao tâm hn, bao cảnh đời - mà thơ ca còn ghi dấu lại trong kho tàng văn học Việt Nam. Bên cạnh đó, còn có tác phẩm sân khấu truyền thống như "Quan Âm Thị Kính". Học sinh phổ thông trong chương trình ngữ văn lớp 7 được học, phân tích các nhân vật nữ trong tác phẩm này, trong đó có Thị Kính - một phụ nữ gặp nhiều nghịch duyên oan trái nhưng vẫn kiên tâm nhẫn nhục, giữ tròn đạo hạnh để tu hành theo Phật pháp cho đến khi đắc đạo, trở thành một vị Bồ Tát linh thiêng huyền nhiệm.

Không phải chỉ khi gặp oan trái thì phụ nữ mới lên chùa. Trong bài thơ "Em đi chùa Hương" của Nguyễn Nhược Pháp, Trung Đức phổ nhạc ta bắt gặp hình ảnh người con gái Việt Nam duyên dáng, ăn mặc chỉnh chu đi lễ chùa đầu năm với gia đình:

"Hôm nay em đi chùa Hương,
Hoa cỏ còn mờ hơi sương
Cùng thầy me em vấn đầu soi gương
Khăn nhỏ, đuôi gà cao
Em đeo dải yếm đào
Quần lanh, áo the mới
Tay em cầm chiếc nón quai thao
Chân em đi đôi guốc cao cao...".

Ngoài hình ảnh ngôi chùa Việt trong kho tàng văn học dân gian, bước qua giai đoạn hiện đại nhiều nhạc sĩ Việt Nam mà tiêu biểu và rõ nét nhất là cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn - với hơn 600 nhạc phẩm - đã xây dựng trong tâm trí người nghe một ngôi chùa bằng nhạc trong tâm để mỗi người đều biến thành những con người "hình đồng không xuất gia nhưng tâm niệm lại xuất gia". Những triết lý Phật giáo thấm nhuần trong từng nốt nhạc Trịnh Công Sơn đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn từ bi của nhiều thế hệ người

Việt Nam trong và ngoài nước, đặc biệt là những người yêu thích nhạc của ông. Ví như bài hát "Đợi có một ngày" có câu: "... Đợi xóa sân si dưới bóng bò đề"; "Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ" (Ru em). "Từ bi" có nghĩa là tâm từ (maitri) và tâm bi (karuna), hai đức hạnh mà Phật giáo khuyên tín đồ của mình nên tu dưỡng.

Bên cạnh thế giới văn hóa nghệ thuật, thì thế giới đời thường của người Việt Nam cũng thật gần gũi với tư tưởng và tinh thần của Phật giáo nói chung, hình ảnh ngôi Chùa nói riêng thể hiện qua cách mà người Việt suy nghĩ và diễn đạt. Ví như "cúng Chùa"," vắng như chùa Bà Đanh"; "mượn hoa cúng Phật",...

Những lưu ý khi đi chùa để tránh mắc sai lầm

Trong sự hòa quyện văn hóa dân gian và giáo lý nhà Phật, vào những ngày mùng 1, ngày rằm trong năm, nhiều người dân Việt Nam thường có thói quen đi chùa, thắp nhang cầu an, cầu siêu.... Tuy nhiên, bên cạnh những người đến chùa lễ Phật, hành thiện tích đức, gìn giữ nét văn hóa thanh lịch khi đến cửa chùa thì cũng còn không ít người làm mai một bản sắc văn hóa, gây mất mỹ quan hay nói cách khác làm giảm giá trị văn hóa đích thực khi đi chùa lễ Phật. Qua bài viết dưới góc nhìn văn hóa xã hội, đối chiếu với yêu cầu phát triển của một đô thị văn minh chúng tôi xin được góp thêm một số ý kiến góp phần nâng cao văn hóa ứng xử trong lễ chùa đầu năm của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Bàn về văn hóa đi lễ chùa đầu năm của người Việt
Đi lễ chùa đầu năm mới là một nét đẹp trong đời sống tâm linh luôn được duy trì trong mỗi người dân Việt Nam. Người Việt tin rằng, đi lễ chùa đầu năm là về nơi cửa Phật, không đơn giản chỉ để mong muốn và ước nguyện, mà còn là lòng tin và những khoảnh khắc để con người hòa minh vào chốn tâm linh, bỏ lại phía sau những lo toan vất vả trong cuộc sống mưu sinh.

undefined
Tục lệ đi lễ chùa đầu năm của người Việt Nam.

Việc đi lễ chùa không chỉ giúp cho người dân Việt Nam giữ gìn được bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc, ghi nhớ công ơn ông bà tố tiên mà còn hướng con người tới chân - thiện - mỹ, làm những việc có ý nghĩa cho gia đình và xã hội. Bên cạnh đó, chức năng tâm lý của tôn giáo cho chúng ta biết rằng khi cuộc sống ngày càng hối hả, tất bật, bon chen, nhiều áp lực... thì con người lại càng muốn tìm về chốn linh thiêng, thanh tịnh.

Đi chùa cầu nguyện để nhận lại điều gì?

Một hình ảnh dễ nhận thấy trong thời gian gần đây đó là vào các mùa lễ, Tết... người dân chen lấn kéo nhau đến chùa, rải tiền lẻ khắp nơi; có một số người đến chùa hái hoa, bẻ cành, lặt trụi hết các chậu hoa, đốt cả bó nhang to, xả rác... chưa kể những cô gái mặc váy ngắn, cười nói to tiếng nơi chốn thanh tịnh làm mất đi tính thiêng liêng của nơi tôn nghiêm.
Rõ ràng, không phải ai đến chùa cũng hiểu được đầy đủ ý nghĩa của việc đi chùa lễ

Phật, hay nói cách khác không phải ai cũng biết cách thực hành nghi lễ ở chùa sao cho đúng. Theo Thượng tọa Thích Thanh Lịch, quan niệm của người xưa, tiền lẻ đặt trong chùa là tiên đóng góp vào hương đăng, hoa quả và dầu đèn. Trải qua thời gian, hiện nay một số người đi chùa đã hiểu sai bản chất tiền dầu đèn, tiền công đức.

Tương tự như vậy hái lộc đầu xuân là một phong tục trong ngày Tết cổ truyền Việt Nam, mang ý nghĩa, giá trị tinh thần với hy vọng một năm mới nhiều may mắn, tốt lành. Tuy nhiên, phong tục này ít nhiều đã bị biến tướng làm mất đi ý nghĩa nhân văn ban đầu.

"Hái lộc" chỉ mang tính tượng trưng nhưng nhận thức của một số người về hái lộc đầu xuân đã sai lệch, mang khía cạnh tiêu cực, lạm dụng và biến tập tục này trở thành hủ tục. Hình ảnh người đi hái lộc cố sức trèo lên cây bẻ cả cành to, chọn lộc to, lộc đẹp, thậm chí mang cả công cụ trợ giúp để "chặt lộc", "cưa lộc" ngày càng trở nên phổ biến.

Việc lạm dụng tục hái lộc đầu xuân phải được lên án vì không những không phù hợp với tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam mà còn góp phần tàn phá, hủy hoại môi trường sinh thái.
Ăn mặc là quyền tự do của mỗi người nhưng ăn mặc sao cho thanh lịch phù hợp với bối cảnh và nơi chốn chính là văn hóa. Khi đến đền, chùa, miếu, phủ phần lớn mọi người đều ăn mặc chỉnh tề, lịch sự. Tuy nhiên, hiện nay nhiều người, nhất là giới trẻ vẫn "vô tư" trinh diễn những bộ trang phục thiếu vải, phản cảm. Hành vi này đến nay tuy chưa bị chế tài nhưng bị điều chỉnh bởi quy phạm đạo đức hay nói cách khác bị xã hội lên án vì sự bất kính với thần Phật, không phù hợp thuần phong mỹ tục của dân tộc.

Một số ý kiến góp phần gìn giữ nét đẹp văn hóa đi lễ chùa ngày tết của dân tộc Việt Nam

Hiểu và thực hành các giá trị văn hóa của việc đi lễ chùa sẽ góp phần nâng cao các giá trị đời sống tâm linh của người dân Việt Nam nói chung, người dân đô thị nói riêng, trong bối cảnh xây dựng văn hóa, nếp sống văn minh đô thị. Mục đích của việc đi chùa là trải nghiệm đời sống văn hóa và tâm linh để thăng hoa nhận thức, sám hối những việc làm chưa đúng, tu tâm tích đức và thông qua đó cải thiện đời sống xã hội. Nếu không hiểu và làm không đúng thì ranh giới giữa văn hóa và phản văn hóa liên quan đến câu chuyện đi lễ chùa rất mong manh. Theo đó, để gìn giữ nét đẹp văn hóa đi lễ chùa ngày Tết của dân tộc Việt Nam, chúng tôi cho rằng:

Về phía người đi lễ chùa

Chỉn chu từ trang phục, lời ăn tiếng nói đến cử chỉ, hành vi nơi chốn tôn nghiêm. Theo đó, việc chọn và khoác lên mình bộ trang phục truyền thống kín đáo vừa thể hiện sự trân trọng văn hóa dân tộc vừa bày tỏ lòng tôn kính và biết ơn đối với các vị thân Phật, các anh hùng dân tộc đã có công dựng nước và giữ nước. Bên cạnh đó, không nói lớn tiếng, văng tục, chửi thề; không chen lấn, xô đẩy tranh nhau xin lộc; không xả rác; không nhét tiền vào tay Phật, không đặt tiền lẻ lên các mãm cúng; thắp vừa đủ số nhang theo quy định và hướng dẫn của nhà chùa,…

Đối với ban quản trị nhà chùa

Cần có bảng hướng dẫn khách thập phương về văn hóa đi lễ chùa; công bố chương trình các lễ hội do chùa tổ chức trong những ngày đầu xuân cùng ý nghĩa giáo lý tốt đẹp của Phật giáo. Không cổ súy cho khách thập phương cúng đốt giấy tiền vàng bạc vì điều này không phải là tinh thần của Phật giáo. Thay vì các thầy chỉ lì xì tiền may mắn (mệnh giá 1.000 đồng, 2.000 đồng,...) nên thêm vào những câu kinh, kệ có ý nghĩa khuyên răn con người hành thiện, làm những việc có ý nghĩa cho gia đình và xã hội, tránh xa cái ác hướng đến giá trị chân - thiện - mỹ của cuộc sống. Bên cạnh đó việc thiết kế không gian văn hóa tâm linh trong khuôn viên chùa cũng có ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao tính thẩm mỹ, giáo dục văn hóa truyền thống và thực hành nếp sống văn minh đô thị đối với Phật tử và du khách.

Cơ quan quản lý văn hóa

Cũng cần phải quyết liệt hơn nữa trong việc quản lý các ấn phẩm mang màu sắc mê tín dị đoan; có biện pháp chế tài các trang web đi ngược lại với tinh thần tư tưởng của Phật giáo. Tuyên truyền giáo dục người dân thực hành nếp sống văn hóa, văn minh đô thị.

Tóm lại, hiểu và trân trọng các giá trị văn hóa của việc đi lễ chùa nói chung đi lễ chùa đầu năm nói riêng, hiểu được các giáo lý của Phật giáo sẽ giúp cho người dân nãng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xây dựng nếp sống văn hóa văn minh đô thị.

Bài Podcast đến đây xin tạm dừng, thân ái chào tạm biệt quý vị!

Việt Nam - Ba Lan: Hướng tới công bằng thương mại song phương

Việt Nam - Ba Lan: Hướng tới công bằng thương mại song phương

“Việt Nam - Ba Lan hướng đến cân bằng thương mại song phương”, kính thưa quý vị, trên đây là tiêu đề bài viết của tác giả Nguyên Minh đưa tin trực tiếp từ Warsaw, Ba Lan trong chuyến công tác do Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên làm trưởng đoàn. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Ngày 16/1/2025, đoàn công tác Ba Lan và Việt Nam đã tổ chức cuộc họp tham vấn kinh tế song phương lần thứ 2 tại Warsaw, Ba Lan.

Đoàn công tác Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên làm trưởng đoàn. Tháp tùng Bộ trưởng tham dự Phiên họp về phía Bộ Công Thương, có lãnh đạo các Cục, Vụ: Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ, Cục Xuất nhập khẩu, Cục Công nghiệp, Văn phòng Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế, Báo Công Thương... và một số Bộ ngành liên quan, Thương vụ Việt Nam tại Ba Lan.
Về phía Ba Lan, đoàn đại biểu Ba Lan dẫn đầu là Bộ trưởng Bộ Phát triển Kinh tế và Công nghệ Krystof Paszyk cùng các cán bộ của Bộ Phát triển Kinh tế và Công nghệ Ba Lan; đại diện Bộ Công nghiệp, Bộ Khí hậu và Tài nguyên, Bộ Công sản Nhà nước...
Cuộc họp tham vấn được thực hiện trong khuôn khổ các điều khoản Bản ghi nhớ giữa Bộ Phát triển Kinh tế và Tài chính Ba Lan và Bộ Công Thương Việt Nam ký ngày 28/11/2017.
Tại cuộc họp, hai Bộ trưởng nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác giữa hai nước trong bối cảnh kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Ba Lan và Việt Nam. Hai Bên ghi nhận mối quan hệ lâu dài và hữu nghị sâu sắc giữa hai nước và nhất trí tăng cường hơn nữa quan hê kinh tế song phương, thúc đẩy thương mại và đầu tư, mở thêm những lĩnh vực hợp tác mới hai Bên cùng có lợi.

undefined
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên và Bộ trưởng Krystof Paszyk ký kết biên bản cuộc họp.

Hai Bộ trưởng đã cùng nhau thảo luận về các lĩnh vực hợp tác như thương mại, công nghiệp, khai thác khoáng sản, đổi mới sáng tạo, phát triển công nghiệp bán dẫn, chuyển đổi số, nông sản, dược phẩm và bày tỏ quan điểm về hợp tác trong tương lai trong các lĩnh vực này.
Đặc biệt, hai Bên đã trao đổi thông tin về các xu hướng mới nhất trong thương mại song phương và các giải pháp để thuận lợi hoá cho thương mại và đầu tư, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường hơn nữa các cuộc tiếp xúc giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp và tham gia các hội chợ, triển lãm, các sự kiện xúc tiến thương mại của nhau.
Hai Bộ trưởng nhấn mạnh, cần tận dụng hiệu quả Hiệp định thương mại tự do EU - Việt Nam (EVFTA) tạo điều kiện cho hàng hóa có thế mạnh của mỗi nước thâm nhập thị trường của nhau. Điều này sẽ tạo nền tảng vững chắc cho việc thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Ba Lan trong thời gian tới.
Việt Nam - Ba Lan hướng đến cân bằng thương mại song phương
Theo Bộ trưởng Krzysztof Paszyk, Việt Nam đang là đối tác thương mại quan trọng nhất của Ba Lan trong số các nước ASEAN và là một trong những điểm đầu tư hàng đầu của các doanh nghiệp Ba Lan ở châu Á - Thái Bình Dương. Ngài Bộ trưởng cũng thông báo Ba Lan đã bắt đầu thủ tục nội bộ phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ Đầu tư Việt Nam và Liên minh châu ÂU (EVIPA).
Đáng chú ý, trao đổi với Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, Bộ trưởng Krzysztof Paszyk mong muốn, thương mại hai nước sẽ hướng đến sự cân bằng và mở rộng các mặt hàng thương mại.
Bộ trưởng Krzysztof Paszyk cho biết, năm 2023, kim ngạch thương mại hai chiều đạt hơn 5,5 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu của Ba Lan sang Việt Nam tăng 16% đạt giá trị 581 triệu USD. Xuất khẩu của Việt Nam sang Ba Lan tăng gần 12% đạt gần 5 tỷ USD. Kết quả, Ba Lan ghi nhận thâm hụt thương mại đáng kể là 4,4 tỷ USD. Tương tự, trong năm 2024, sau 10 tháng, xuất khẩu Ba Lan sang Việt Nam đạt 339 triệu USD nhưng nhập khẩu đạt 4,7 tỷ USD, dẫn đến nhập siêu ở mức 4,4 tỷ USD.
Đánh giá sự tiến bộ trong việc mở rộng tiếp cận thị trường cho các sản phẩm nông sản thực phẩm của Ba Lan có thể giúp góp phần cân bằng thương mại song phương giữa hai nước. Năm 2023, Ba Lan ghi nhận cán cân thương mại thâm hụt 133,2 triệu USD đối với các sản phẩm nông sản thực phẩm từ Việt Nam (sau 10 tháng năm 2024, mức thâm hụt lên tới 161,8 triệu USD).
Phía Ba Lan hy vọng rằng, việc tăng cường các cuộc đối thoại giữa các tổ chức kiểm dịch thực vật và thú y sẽ giúp mở cửa thị trường Việt Nam cho các sản phẩm nông sản chất lượng cao của Ba Lan.
Bộ trưởng Krzysztof Paszyk cũng cho biết, Ba Lan đánh giá cao kết quả cuộc họp lần thứ 3 của Nhóm Công tác Ba Lan - Việt Nam trong lĩnh vực nông nghiệp đã mở cửa thị trường cho sản phẩm việt quất của Ba Lan.
Bộ trưởng Krzysztof Paszyk kỳ vọng, phía Việt Nam sẽ cập nhật thường xuyên danh sách các cơ sở của Ba Lan và danh sách các sản phẩm Ba Lan thuộc diện kiểm soát thú y. Bên cạnh đó, Bộ trưởng Krzysztof Paszyk cũng hy vọng Việt Nam sớm hoàn tất các yêu cầu xuất khẩu đối với các sản phẩm có nguồn gốc động vật từ Ba Lan.
Ngoài ra, liên quan đến thương mại nông sản giữa hai nước, Bộ trưởng Krzysztof Paszyk cũng đề nghị Việt Nam sẽ tiếp tục mở cửa thị trường cho các sản phẩm nông sản chất lượng cao của Ba Lan.
10 nội dung Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên trao đổi tại tham vấn
Cũng trong cuộc họp tham vấn, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã thông tin tới Bộ trưởng Krzysztof Paszyk về những kết quả tốt đẹp trong cuộc gặp hẹp và hội đàm giữa Thủ tướng hai nước Việt Nam - Ba Lan diễn ra trong sáng 16/1.
Trong buổi gặp hẹp, hội đàm, hai Thủ tướng đã nhất trí xem xét sớm nâng cấp quan hệ lên tầm chiến lược trên cơ sở tin cậy chính trị cao và các thành tựu tốt đẹp của mối quan hệ hữu nghị truyền thống Việt Nam - Ba Lan với bề dày lịch sử 75 năm. Đồng thời, hai Thủ tướng cũng nhất trí tiếp tục triển khai hiệu quả các khuôn khổ hợp tác, các các thỏa thuận đã ký kết giữa hai nước; đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực quốc phòng - an ninh, thương mại - đầu tư, khoa học - công nghệ, giao thông vận tải, kết nối đường sắt, dược phẩm, giáo dục - đào tạo, văn hóa - du lịch và giao lưu nhân dân, đồng thời mở rộng hợp tác sang các lĩnh vực tiềm năng như năng lượng tái tạo, chuyển đổi số, công nghệ thông tin, lao động, nông nghiệp… Hai Thủ tướng cũng nhất trí sẽ hỗ trợ, làm cửa ngõ cho hàng hóa của nhau vào thị trường ASEAN và EU.
Liên quan đến những đề xuất từ Bộ trưởng Krzysztof Paszyk, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên nhất trí và tin rằng, những đề xuất của Bộ trưởng Krzysztof Paszyk sẽ giúp thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hợp tác giữa hai nước Việt Nam - Ba Lan; hiện nay, dư địa cho phát triển thương mại, đầu tư giữa hai nước vẫn còn rất lớn, hai nước có thể tiếp tục gặt hái những kết quả tốt đẹp trong tương lai.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh, hai nước có tiềm năng tận dụng tốt hơn Hiệp định EVFTA để Ba Lan trở thành cầu nối cho hàng hóa Việt Nam xâm nhập và phát triển ở thị trường EU, cũng như hàng hóa Ba Lan thông qua thị trường Việt Nam tiếp cận thị trường các nước ASEAN và các nước mà Việt Nam đã ký kết các Hiệp định thương mại tự do.
Trao đổi với Bộ trưởng Krzysztof Paszyk về tình hình hợp tác thương mại hai nước, trước hết, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, trong năm 2023, nền kinh tế Việt Nam cũng đã chịu ảnh hưởng rất nhiều từ những khó khăn chung của nền kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của Việt Nam có sự tụt giảm xuống 5,05%. Tuy nhiên năm 2024, kinh tế - xã hội Việt Nam đã khởi sắc trên hầu hết các lĩnh vực. Hoạt động sản xuất, kinh doanh tăng trưởng mạnh mẽ, nhiều ngành đã khôi phục mạnh mẽ và đạt mức tăng trưởng cao như: công nghiệp chế biến, chế tạo; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng; xuất khẩu hàng hóa. Tăng trưởng GDP đạt 7,09% cho năm 2024.
Nhấn mạnh, thương mại song phương giữa hai nước vẫn luôn tăng trưởng trong thập kỷ qua, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, năm 2022-2023, mặc dù chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 và cuộc xung đột địa chính trị giữa Nga và Ukrania, nhưng tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước vẫn có sự tăng trưởng nhẹ, năm 2022 là 3,5% và năm 2023 là 5,9%.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, năm 2024 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Ba Lan đạt 3,4 tỷ USD tăng 21,7% so với năm 2023. Trong đó, xuất khẩu đạt hơn 3 tỷ USD, tăng 24,4% và nhập khẩu đạt 387 triệu USD tăng 3,8%. Tuy có sự tăng trưởng, nhưng con số này vẫn chưa tương xứng và chưa phản ánh đúng tiềm năng và lợi thế của các bên.
Hai là, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đánh giá cao hoạt động của Nhóm công tác về nông nghiệp giữa hai nước. Kết quả cuộc họp Nhóm công tác về nông nghiệp lần thứ 3 được tổ chức tại Việt Nam vào tháng 11/2024 đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp hai nước và thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông sản, thực phẩm của hai nước sang thị trường mỗi bên. Việt Nam đề xuất hai Bên thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực đóng tàu phục vụ nghiên cứu nguồn lợi hải sản,
Ba là, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh, hợp tác thương mại và đầu tư trong lĩnh vực dược phẩm rất tiềm năng. Tuy nhiên, để tận dụng điều này còn phụ thuộc nhiều vào việc tuân thủ quy định của hai nước và các Điều ước quốc tế mà hai nước là thành viên. Việt Nam khuyến khích các công ty nước ngoài: Đầu tư nghiên cứu và sản xuất thuốc, vắc xin, sinh phẩm tại Việt Nam; Chuyển giao công nghệ sản xuất thuốc mới, thuốc biệt dược, và thuốc sinh học tại các cơ sở sản xuất thuốc Việt Nam; Hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật trong điều trị, sản xuất dược phẩm và mỹ phẩm; Chuyển giao công nghệ và đầu tư sản xuất trang thiết bị y tế tại Việt Nam.
Bốn là, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên hoan nghênh đề xuất của phía Ba Lan trong việc mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực như công nghệ bán dẫn, nông nghiệp, khai thác mỏ, năng lượng, môi trường, các giải pháp công nghệ bền vững và thân thiện với môi trường cho nền kinh tế tuần hoàn và quản lý nước thải.
Để thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực này, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho rằng, hai nước cần tiếp tục tăng cường trao đổi, hỗ trợ lẫn nhau trong thích ứng với biến đổi khí hậu và thực hiện các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính.
Năm là, trong lĩnh vực chuyển đổi số, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh, Việt Nam khuyến khích hai bên hợp tác, trao đổi thông tin và chia sẻ kinh nghiệm trong việc xây dựng chính sách, chiến lược, giải pháp, mô hình và công nghệ để thúc đẩy chuyển đổi số.
Bộ trưởng gợi mở, hai bên có thể hợp tác phát triển nền tảng số; Đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI); Đào tạo nguồn nhân lực số; Phát triển các giải pháp an ninh mạng; Thúc đẩy hợp tác thương mại số; Triển khai các dự án thí điểm ứng dụng công nghệ chuyển đổi số trong các ngành như nông nghiệp thông minh, sản xuất, dịch vụ.
Sáu là, khẳng định rằng biến đối khí hậu là một thách thức nghiêm trọng toàn cầu. Việt Nam với tư cách là một quốc gia đang phát triển đã bị ảnh hưởng đáng kể bởi những tác động của biến đổi khí hậu. Tại COP 26, Việt Nam đã đưa ra những cam kết mạnh mẽ để đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Do vậy, Việt Nam mong muốn hợp tác với Ba Lan để trao đổi kinh nghiệm trong chuyển đổi năng lượng và chuyển giao công nghệ về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Bảy là, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị Ba Lan hỗ trợ Việt Nam vận động Ủy ban châu Âu dỡ bỏ thẻ vàng đối với ngành thủy sản Việt Nam, qua đó có thể thúc đẩy kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Ba Lan.
Tám là, vui mừng khi Ba Lan đã bắt đầu thủ tục nội bộ phê chuẩn Hiệp định EVFTA, Bộ trưởng đề nghị Ba Lan tiếp tục quá trình phê chuẩn Hiệp định bảo hộ đầu tư EVIPA tại Ba Lan.
Chín là, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường hợp tác trong hoạt động xúc tiến thương mại giữa hai Bên. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các sản phẩm có thế mạnh của Việt Nam tiếp cận thị trường Ba Lan, đồng thời tạo điều kiện cho các sản phẩm có ưu thế của Ba Lan thâm nhập thị trường Việt Nam một cách hiệu quả.
Mười là, để thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại giữa hai nước, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị, hai Bên cần phối hợp chặt chẽ nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc mở rộng mạng lưới phân phối hàng hóa thông qua hệ thống siêu thị, bán lẻ tại cả Ba Lan và Việt Nam, bao gồm: Cung cấp thông tin, giới thiệu các tập đoàn phân phối Ba Lan đặt hiện diện thương mại tại Việt Nam, hợp tác đưa hàng hóa Việt Nam xuất khẩu vào các mạng phân phối của các tập đoàn tại Ba Lan/các nước thuộc EU, nhất là hàng hóa mang thương hiệu Việt Nam;
Cùng với đó, khuyến khích các tập đoàn phân phối đa quốc gia của Ba Lan/EU liên kết, hợp tác với các cơ sở, doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam để phát triển nguồn hàng cho mạng phân phối toàn cầu của tập đoàn, doanh nghiệp đó, xây dựng Việt Nam thành trung tâm cung ứng của khu vực;
Mặt khác, đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam chuyển đổi số và phát triển xuất khẩu hàng hóa dựa trên các nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới của Việt Nam và nước ngoài.
Trước bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động, những nền kinh tế mở, hội nhập sâu như Việt Nam và Ba Lan cần hợp tác chặt chẽ, hiệu quả hơn nữa, nhất là trong lĩnh vực thương mại, công nghiệp và chuyển đổi năng lượng để cùng ứng phó và nâng cao sức chống chịu của mỗi nền kinh tế. Việc tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại song phương cũng như trong khuôn khổ đa phương giữa hai khối ASEAN và EU sẽ mang lại lợi ích to lớn cho cả Việt Nam và Ba Lan.
Dự kiến cuộc họp tham vấn kinh tế song phương lần thứ 3 sẽ được tổ chức tại Hà Nội vào năm 2027.
Sau cuộc họp tham vấn kinh tế lần thứ 2 Việt Nam - Ba Lan, Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam Nguyễn Hồng Diên và Bộ trưởng Bộ Phát triển Kinh tế và Công nghệ Ba Lan Krystof Paszyk đã ký kết biên bản cuộc họp, thống nhất nhiều nội dung quan trọng để thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại giữa hai nước.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cùng đoàn công tác Bộ Công Thương tháp tùng Thủ tướng và Phu nhân trong chuyến công tác.

Bên cạnh việc tháp tùng Thủ tướng tham dự các hoạt động đối ngoại song phương tại Ba Lan, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cùng đoàn công tác Bộ Công Thương cũng sẽ có các cuộc gặp gỡ, làm việc tiếp xúc song phương với các đối tác.

Nội dung Podcast của chúng tôi đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị