Thị trường tỷ đô và yêu cầu kiểm soát từ gốc
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 9 tháng đầu năm 2025 đạt 52,31 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2024. Trung Quốc tiếp tục là một trong ba thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch. Riêng 9 tháng đầu năm, giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản sang Trung Quốc tăng 5,9%.

Sầu riêng Việt Nam được ưa chuộng tại Trung Quốc. Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Sầu riêng tiếp tục là “ngôi sao” trên bản đồ xuất khẩu nông sản Việt. Theo Cục Hải quan, riêng tháng 9/2025, Trung Quốc đã chi gần 1 tỷ USD để nhập khẩu sầu riêng Việt Nam – tăng 67,7% so với tháng trước, chiếm tới 93,6% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này. Tính chung 9 tháng, xuất khẩu sầu riêng đạt gần 2,8 tỷ USD, tăng 65% so với cùng kỳ 2024.
Tuy nhiên, thị trường Trung Quốc đang chuyển từ “dễ tính” sang “quản lý rủi ro nghiêm ngặt”. Theo Lệnh 280, từ giữa năm 2026, mọi doanh nghiệp xuất khẩu thực phẩm, nông sản vào nước này phải đăng ký, chứng minh năng lực kiểm soát an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc theo chuỗi.
ThS. Đinh Đức Hiệp, cán bộ Văn phòng SPS Việt Nam, cho biết, Trung Quốc đã chuyển hướng sang cơ chế quản lý phân loại theo rủi ro. Doanh nghiệp không chỉ phải đảm bảo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, mà còn cần chứng minh được năng lực kiểm soát rủi ro tại từng vùng trồng và cơ sở đóng gói. Đây là bước kiểm soát từ gốc – đảm bảo sản phẩm nông nghiệp được giám sát xuyên suốt chuỗi giá trị.
Không chỉ Trung Quốc, các quốc gia trong khối RCEP như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Australia cũng đang áp dụng cơ chế tương tự, yêu cầu minh bạch thông tin truy xuất nguồn gốc, kiểm soát dịch bệnh và chứng nhận sản xuất sạch.
Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc, Phó Viện trưởng Viện Bảo vệ thực vật, nhận định, mã số vùng trồng và mã số cơ sở đóng gói không chỉ là con số nhận diện, mà là minh chứng về năng lực quản lý và sản xuất an toàn. Hàng rào kỹ thuật ngày càng khắt khe buộc chúng ta phải chuẩn hóa ngay từ khâu đất, nước, giống đến quy trình canh tác, thu hoạch và đóng gói.
Theo các khảo sát của Viện Bảo vệ thực vật, nhiều vùng cây ăn quả chủ lực như sầu riêng, thanh long, xoài, chanh leo… đang đối mặt với tình trạng suy thoái đất, mất cân đối dinh dưỡng và giảm hoạt tính sinh học, ảnh hưởng đến năng suất và khả năng duy trì mã số vùng trồng bền vững.
Để đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu, các vùng sản xuất phải áp dụng quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp (IPHM), kết hợp biện pháp sinh học, canh tác và hóa học hợp lý; sử dụng chế phẩm sinh học, bẫy dẫn dụ, nấm đối kháng thay cho thuốc bảo vệ thực vật. Mọi hoạt động đều cần được ghi chép đầy đủ trong hồ sơ truy xuất.
Chuẩn hóa quản lý, hướng tới đăng ký tự động mã số xuất khẩu
Theo ông Huỳnh Tấn Đạt, Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), quản lý mã số vùng trồng đã được thể chế hóa trong Luật Trồng trọt. Mã số vùng trồng là mã định danh của vùng sản xuất tuân thủ quy trình thực hành nông nghiệp tốt (VietGAP, GlobalGAP), được theo dõi, ghi chép và giám sát đầy đủ, nhằm truy xuất được nguồn gốc sản phẩm.
Quy trình cấp và quản lý mã số vùng trồng hiện nay gồm 4 yêu cầu then chốt. Theo đó, quản lý đầu vào từ giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật theo quy định, tuyệt đối không sử dụng chất cấm; áp dụng quy trình canh tác an toàn, thực hành nông nghiệp tốt (VietGAP, GlobalGAP) xuyên suốt từ trồng, thu hoạch đến tiêu thụ; theo dõi sinh vật gây hại, ghi chép định kỳ, chứng minh năng lực kiểm soát dịch hại; cập nhật cơ sở dữ liệu quốc gia, mọi vùng trồng, cơ sở đóng gói phải được cấp mã số và cập nhật trên phần mềm của Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật để phục vụ công tác giám sát và xuất khẩu.
Nghị định 280 của Tổng cục Hải quan Trung Quốc (thay thế Nghị định 248) là một bước điều chỉnh quan trọng, hướng tới quản lý rủi ro về an toàn thực phẩm theo chuỗi giá trị. Quy định này yêu cầu kiểm soát chặt chẽ toàn bộ quy trình từ sản xuất đầu vào, sơ chế, đóng gói cho tới khâu xuất khẩu, trên cơ sở đánh giá mức độ rủi ro của từng mắt xích trong chuỗi.
“Đây là nghị định mới nhằm chuẩn hóa toàn bộ chuỗi liên kết nông sản xuất khẩu theo hướng quản lý rủi ro. Chúng tôi đang phối hợp với Tổng cục Hải quan Trung Quốc để thống nhất quy trình hướng dẫn, đảm bảo các bên liên quan có thể tham gia và tuân thủ đúng yêu cầu”, ông Đạt cho biết.
Hiện Cục đang nghiên cứu, phối hợp với Tổng cục Hải quan Trung Quốc để xây dựng các quy trình hướng dẫn đến tất cả các thành viên cần tham gia liên quan. Trên cơ sở đó, Việt Nam sẽ công bố minh bạch quy trình đăng ký và thực hiện việc đăng ký mã số xuất khẩu qua cổng Hải quan Trung Quốc theo cơ chế tự động. Khi đó, doanh nghiệp Việt có thể chủ động đăng ký, cập nhật và được xác nhận trực tuyến qua hệ thống hải quan Trung Quốc, thay vì phải gửi hồ sơ thủ công như trước.
Cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật sẽ là đầu mối đồng hành, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đăng ký, xác nhận và duy trì hiệu lực mã số. Cùng với đó, hai bên sẽ phối hợp giám sát, kiểm tra và đánh giá định kỳ để đảm bảo quá trình chứng nhận được duy trì bền vững, kiểm soát hiệu quả các rủi ro liên quan đến chuỗi sản xuất, chế biến, xuất khẩu nông sản của Việt Nam.
Theo các chuyên gia, việc triển khai cơ chế đăng ký tự động không chỉ giúp đáp ứng quy định của Trung Quốc, mà còn nâng cấp năng lực quản trị chuỗi cung ứng nông sản Việt Nam. Khi mỗi lô hàng được truy xuất đến tận thửa ruộng, người nông dân không chỉ bán sản phẩm, mà còn bán được uy tín, thương hiệu và sự minh bạch.
Trong bối cảnh đó, việc Việt Nam chuẩn hóa và số hóa hệ thống mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói là bước đi chiến lược để nâng tầm năng lực cạnh tranh của nông sản. Khi dữ liệu vùng trồng được chuẩn hóa, việc đăng ký xuất khẩu, kiểm soát dịch bệnh hay chứng nhận an toàn đều trở nên nhanh hơn, minh bạch hơn. Đó là nền tảng cho xuất khẩu bền vững.







