Nội địa hóa thiết bị đường sắt: Phương án nào phù hợp?

Việc làm chủ công nghệ không chỉ giúp giảm chi phí đầu tư mà còn nâng cao năng lực sản xuất trong nước, tạo động lực phát triển bền vững của ngành đường sắt.
Việt Nam sắp có ray thép cho đường sắt tốc độ cao và công nghiệp quốc phòngĐường sắt cao tốc Bắc - Nam: Cơ hội bứt phá cho công nghiệp thép ray ViệtThủ tướng chốt ngày khởi công tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng

Phương án nào cho việc nội địa hóa thiết bị?

Theo một số nghiên cứu, nếu có các cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển hợp lý trong ngành công nghiệp đường sắt đô thị, tỷ lệ nội địa hóa trong nước có thể đạt được hơn 79 - 83%, tương đương 39,18 - 41,16 tỷ USD.

Đường sắt
Phối cảnh đường sắt tốc độ cao - Ảnh minh họa

Đây là một thị trường rất lớn. Mặc dù, các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu tham gia vào chuỗi cung ứng ngành đường sắt, nhưng phần lớn mới chỉ dừng ở những mảnh ghép nhỏ lẻ.

Từ kinh nghiệm thực tiễn trong việc nội địa hóa các thiết bị, Tiến sĩ Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí - cho biết, trong thời gian vừa qua, bám sát vào các chính sách được ưu tiên phát triển của Việt Nam, các doanh nghiệp cơ khí trong nước đã thành công trong hợp tác, phát triển với một số đối tác nước ngoài có uy tín trong một số dự án lớn của đất nước như các dự án trong lĩnh vực thủy điện, nhiệt điện, khai thác và chế biến khoáng sản, năng lượng mới và năng lượng tái tạo.

Theo Tiến sĩ Phan Đăng Phong, có 3 mô hình đã thành công trong việc thiết kế và tiếp nhận chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực dây chuyền thiết bị toàn bộ đến thời điểm này.

Cụ thể, mô hình 1: Mua thiết kế và từng bước tiếp thu và làm chủ công nghệ qua từng dự án. Ưu điểm của mô hình này là có ngay công nghệ và có thể hợp tác lâu dài với đối tác nước ngoài để cùng triển khai cho nhiều dự án khác nhau tại Việt Nam. Nhược điểm là không phải lúc nào cũng có thể tìm được đối tác phù hợp, sẵn sàng hợp tác để thực hiện.

Mô hình 2: Mua thiết bị công nghệ chính và kèm theo yêu cầu cấp thiết kế, công nghệ để học hỏi qua các dự án. Ưu điểm của mô hình này là: Đảm bảo an toàn của dự án vì thiết bị chính và thiết kế 100% của nước ngoài cho các dự án đầu tiên, song nhược điểm là sẽ đắt và mất nhiều thời gian hơn mới hoàn thành việc làm chủ công nghệ.

Mô hình 3: Thuê trực tiếp các chuyên gia nước ngoài sang Việt Nam để cùng triển khai dự án. Ưu điểm của mô hình này là: Giá thành sẽ rất rẻ so với thuê công ty nước ngoài thực hiện. Nhược điểm là việc tìm kiếm các chuyên gia nước ngoài đầy đủ kinh nghiệm, sở hữu công nghệ để hợp tác không phải lúc nào cũng tìm được.

Với ba mô hình trên, tham chiếu trong lĩnh vực đường sắt đô thị, lựa chọn mô hình 2 để thực hiện là phù hợp, vì như vậy vẫn đảm bảo có một nhà thầu nước ngoài đủ năng lực, kinh nghiệm đảm bảo về mặt chất lượng toàn bộ hệ thống và vẫn có thể đảm bảo tỷ lệ nội địa hóa theo mong muốn.

Cần xây dựng các cơ chế ưu đãi

Cũng theo Tiến sĩ Phan Đăng Phong, muốn triển khai mô hình 2, cần xây dựng một cơ chế, chính sách để cụ thể hóa vấn đề này như: Đầu tư tăng cường các cơ sở vật chất hiện có để đủ khả năng thực hiện đóng mới, sửa chữa các thiết bị ngành đường sắt.

Đồng thời, lựa chọn một số nhà thầu phù hợp để thực hiện EPC tại Việt Nam kèm theo điều kiện nội địa hóa thiết bị theo tiến trình; chuẩn hóa lại các tiêu chuẩn quản lý, phần mềm quản lý chạy tàu để có sự thống nhất chung giữa các tuyến; xây dựng các cơ chế ưu đãi khác để khuyến khích nội địa hóa các thiết bị…

Thực tiễn cho thấy, với cách làm như mô hình 2, Viện Nghiên cứu Cơ khí đã thực hiện với FAM (Đức) cho dự án nhiệt điện Sông Hậu 1, với MHI (Nhật) trong dự án nhiệt điện Thái Bình 1, Nghi Sơn 2, Vũng Áng 2.

Cách thức hợp tác đó là hợp tác với nước ngoài để mua thiết bị chính cho dự án đầu tiên kèm theo điều kiện cung cấp thiết kế chi tiết của toàn bộ dự án để học hỏi dần, trong đó nước ngoài vẫn chịu trách nhiệm toàn bộ.

Từ dự án thứ hai, Việt Nam sẽ chủ trì cùng đối tác nước ngoài để thiết kế và cung cấp thiết bị, chỉ mua một số thiết bị khó mà trong nước chưa sản xuất được… Kết quả đạt được, Viện đã hợp tác thành công với đối tác nước ngoài để thực hiện các hệ thống cung cấp than, thải tro và xỉ, lọc bụi tĩnh điện cho các dự án Nhiệt điện Nghi Sơn 2, Thái Bình 1, Vũng Áng 2 với mức độ nội địa hóa hơn 60%.

“Qua ba dự án đến thời điểm này chúng tôi có thể tự chủ phần thiết kế hệ thống, chỉ dựa vào đối tác nước ngoài trong thẩm định kiểm tra và mua một số chi tiết trong nước chưa thực hiện được” - Tiến sĩ Phan Đăng Phong nói.

Theo Tiến sĩ Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí, để phát huy tinh thần tự lực, tự cường của các doanh nghiệp cơ khí trong nước, biến tiềm năng, lợi thế và cả những thách thức thành cơ hội, đồng thời, giúp chúng ta kiểm soát được chi phí đầu tư dự án một cách hiệu quả, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho các đơn vị cơ khí trong nước, giảm nhập siêu thì việc xây dựng một cơ chế chính sách phát triển các thiết bị trong lĩnh vực đường sắt đô thị là rất cần thiết và cấp bách.

Quỳnh Nga
Bạn thấy bài viết này thế nào?
Kém Bình thường ★ ★ Hứa hẹn ★★★ Tốt ★★★★ Rất tốt ★★★★★
Bình luận