
Những nương chè đánh thức sinh kế mới cho đồng bào dân tộc miền núi
Những đàn gà gọi mùa no ấm
Trên những triền đồi thoai thoải của vùng cao biên giới, những nương chè bạt ngàn xanh mướt không chỉ đem lại búp chè cho ấm trà buổi sớm, mà còn mở ra một hướng sinh kế mới đầy sáng tạo cho bà con dân tộc thiểu số, đó là mô hình nuôi gà dưới tán chè. Nếu như trước đây, cây chè chỉ cho nguồn thu duy nhất từ việc bán búp tươi, thì nay, dưới tán lá xanh ấy, những đàn gà thả tự nhiên đã trở thành “của để dành”, giúp nhiều gia đình vùng cao khấm khá hơn.

Những đàn gà thả tự nhiên đã trở thành “của để dành”, giúp nhiều gia đình vùng cao khấm khá hơn. Ảnh: Bùi My
Ở xã Pha Long, huyện Mường Khương (Lào Cai), gia đình anh Tráng Seo Pao, người Mông, từng nhiều năm chỉ biết trông vào vài sào chè. Thị trường lên giá thì còn đỡ, lúc rớt giá, công sức chăm bón chẳng đủ bù chi phí. Một lần nhìn khoảng trống dưới tán chè, anh nảy ra ý tưởng thả gà, vừa có bóng mát, vừa tận dụng côn trùng và cỏ non. Từ vài chục con thử nghiệm, nay đàn gà của gia đình đã đều đặn 300 - 400 con mỗi lứa. Gà thả tự nhiên ít bệnh, thịt chắc, thơm, mỗi năm cho gia đình thêm khoảng 70 triệu đồng. Với một hộ vùng cao, con số ấy không nhỏ, đủ để đổi thay cuộc sống từng ngày.
Câu chuyện tương tự diễn ra ở Ba Chẽ (Quảng Ninh), nơi chàng thanh niên dân tộc Sán Chỉ, Đàm Văn Triệu mạnh dạn phát triển đàn gà trên diện tích hơn 2ha trà hoa vàng của gia đình. Từ năm 2019, anh đầu tư chuồng trại, nhập giống, học kỹ thuật, quyết tâm biến ý tưởng thành hiện thực. Ba lứa gà mỗi năm, tổng cộng hơn 1.000 con, đem lại thu nhập từ 100 - 200 triệu đồng. Không chỉ đơn thuần là bán gà thịt, Triệu còn ấp ủ xây dựng thương hiệu “Gà dưới tán chè”, hướng tới siêu thị, nhà hàng, gắn với nhãn sinh thái, hữu cơ. “Gà nuôi dưới tán chè gần như không dùng kháng sinh, chủ yếu ăn thóc, bắp, cỏ và côn trùng, vì thế sản phẩm khác biệt, được khách hàng ưa chuộng hơn gà công nghiệp”, anh chia sẻ.

Mô hình chăn nuôi gà dưới tán trà hoa vàng của anh Đàm Văn Triệu, dân tộc Sán Chỉ. Ảnh: Nhật Minh
Từ Lào Cai đến Quảng Ninh, từ những thôn bản hẻo lánh đến vùng trà hoa vàng nổi tiếng, mô hình nuôi gà dưới tán chè đang thắp lên niềm tin mới cho bà con. Nó không chỉ minh chứng cho sự nhạy bén trong cách làm kinh tế, mà còn khẳng định, ngay trên chính mảnh đất quê hương, người dân có thể sáng tạo để vươn lên làm giàu, không cần rời bản làng đi làm thuê nơi xa.
Giữ màu xanh sinh kế, níu bước chân người trẻ ở lại bản làng
Điểm đặc biệt của mô hình nuôi gà dưới tán chè là sự cộng hưởng lợi ích. Không chỉ tăng thu nhập, bà con còn có thêm phân hữu cơ từ đàn gà để bón lại cho chè, giúp cây sinh trưởng tốt, giảm chi phí phân hóa học. Nhờ vậy, cùng một diện tích đất, người nông dân thu được “hai nguồn lợi” từ chè và từ gà. Theo thống kê của ngành nông nghiệp tỉnh Sơn La, các hộ áp dụng mô hình có thu nhập cao hơn 30 - 50% so với hộ chỉ trồng chè hoặc chỉ nuôi gà. Sau vài vụ, tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo giảm rõ rệt, nhiều gia đình không còn cảnh tha hương làm thuê.
Điều đáng mừng là mô hình này không đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Người dân chỉ cần tận dụng đồi chè sẵn có, dựng chuồng ngủ đơn giản, rào chắn bảo vệ. Chu kỳ nuôi ngắn, vốn quay vòng nhanh, lợi nhuận cao, giúp bà con có thêm tích lũy. Không ít thanh niên nhờ đó tìm được việc làm ổn định ngay tại quê hương, gắn bó hơn với bản làng, góp phần hạn chế tình trạng di cư tự do. Đây cũng là yếu tố quan trọng giữ vững an ninh, trật tự ở địa bàn biên giới.

Mô hình gà dưới tán chè đang dần trở thành hướng đi chiến lược. Ảnh: Bùi My
Ở nhiều nơi như Lào Cai, Sơn La, Quảng Ninh, Yên Bái, Thái Nguyên, mô hình gà dưới tán chè còn trở thành sản phẩm du lịch cộng đồng. Du khách đến tham quan đồi chè không chỉ ngắm cảnh, mà còn trải nghiệm bắt gà, nướng thịt ngay trên đồi, thưởng thức hương vị đặc sản gắn liền với thiên nhiên. Nhiều điểm du lịch đã đưa “ẩm thực gà đồi dưới tán chè” vào thực đơn, thu hút du khách và quảng bá văn hóa ẩm thực bản địa.
Theo thống kê của ngành Nông nghiệp và Môi trường, chỉ sau 3 năm triển khai, ở các tỉnh miền núi, biên giới phía Bắc đã có hơn 750 hộ đồng bào Mông, Dao, Tày, Nùng tham gia, với tổng đàn gần 600.000 con. Cùng với sự đồng hành của các cấp, các ngành, chính quyền địa phương mở lớp tập huấn kỹ thuật, hỗ trợ vốn, hướng dẫn phòng dịch và tìm đầu ra cho sản phẩm. Từ đó, không chỉ giúp bà con giữ rừng chè, bảo vệ môi trường sinh thái, mà còn góp sức xây dựng thương hiệu cho sản phẩm nông nghiệp của đồng bào.
Mô hình gà dưới tán chè, vì thế, không chỉ là câu chuyện của những hộ gia đình nhỏ lẻ, mà đang dần trở thành một hướng đi chiến lược, gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, gắn kết sinh kế với an ninh biên giới. Khi bà con có thu nhập ổn định, đời sống nâng cao, màu xanh đồi chè được giữ vững, bản làng thêm trù phú. Những quả đồi hôm nay không chỉ xanh bởi lá chè, mà còn xanh bởi khát vọng đổi thay, bởi ý chí làm giàu từ chính đôi tay và trí tuệ của người dân tộc thiểu số.
Những đồi chè hôm nay đang ươm mầm cho một ngày mai tươi sáng hơn. Đó là ngày mai mà cây chè không đơn độc, mà song hành cùng đàn gà khỏe mạnh, tạo nên sản phẩm nông nghiệp sinh thái, đủ sức vươn xa vào siêu thị, nhà hàng, thậm chí trở thành thương hiệu riêng của vùng cao. Đó chính là hy vọng về một tương lai no đủ, bền vững, khởi nguồn từ màu xanh bạt ngàn của quê hương.