Để mở rộng thị trường tiêu thụ nói chung và xuất khẩu nông sản miền núi, vùng đồng bào dân tộc nói riêng cần sự chung tay của các Bộ ngành, địa phương |
Điểm sáng xuất khẩu nông sản miền núi |
Không chỉ tiêu thụ nội địa mà hiện nay mỳ chũ Bắc Giang còn được xuất khẩu và được bảo hộ độc quyền về nhãn mác hàng hóa tại Lào, Nhật Bản, Campuchia, Hàn Quốc, Thái Lan. Ông Nguyễn Văn Nam – Giám đốc HTX sản xuất và tiêu thụ mỳ chũ Nam Thể (Bắc Giang), Chủ tịch Chủ tịch Hội Sản xuất và tiêu thụ mỳ chũ Bắc Giang cho biết, mỳ chũ là sản phẩm thương hiệu lớn của Bắc Giang và Lục Ngạn. Những năm gần đây, được địa phương và các sở ban ngành quan tâm, sản phẩm đã tiêu thụ rất tốt và hiện đã được bảo hộ độc quyền về nhãn mác hàng hóa ở 5 nước Lào, Nhật Bản, Campuchia, Hàn Quốc, Thái Lan. Bên cạnh đó, sức tiêu dùng sản phẩm ở thị trường nội địa cũng rất tốt. Sản phẩm không chỉ được người tiêu dùng châu Á mà EU cũng được ưa chuộng. Việc tiêu thụ tốt đã giúp sản phẩm tạo công ăn việc làm cho hàng nghìn người lao động, từ nghề phụ đến nghề chính. Người dân địa phương có thể làm giàu chính đáng từ nghề làm mỳ. Chia sẻ bí quyết để mỳ chũ Lục Ngạn được ưa chuộng cả trong và ngoài nước, ông Nam cho biết, hiện ở Bắc Giang có rất nhiều nơi sản xuất mỳ gạo nhưng riêng mỳ chũ của Lục Ngạn lại có chỗ đứng riêng trong lòng người tiêu dùng. Điều khác biệt ở đây chính là mạch nguồn nước ngầm trong lành của vùng quê cùng với đôi bàn tay khéo léo và kinh nghiệm hơn 60 năm của một làng nghề truyền thống và cả những nguyên liệu đặc sản gạo quê của vùng núi Lục Ngạn. Bên cạnh đó, sản phẩm mỳ chũ Bắc Giang ngon và có hương vị đặc biệt do được làm thủ công, phơi khô bằng nắng gió. Hiện nay, để nâng cao sản lượng, HTX đã đầu tư máy sấy để sản phẩm khô nhanh hơn nhưng có những bước vẫn phải làm thủ công thì mới tạo ra hương vị đặc trưng cho sản phẩm. Bên cạnh đó, HTX rất chú trọng xây dựng thương hiệu cho sản phẩm bằng cách áp dụng công nghệ 4.0 giúp truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Sản phẩm cũng được gắn mã vạch, đóng gói cẩn thân và có tem truy xuất để người tiêu dùng biết được nguồn gốc sản phẩm. Đồng thời nếu sản phẩm chưa đạt chất lượng cũng sẽ dễ dàng tìm ra nơi sản xuất. Nhờ đó, bà con có ý thức hơn trong bảo vệ chất lượng sản phẩm của đơn vị mình. Bên cạnh đó, HTX cũng chú trọng để sản phẩm đạt các tiêu chuẩn của các nước xuất khẩu. Đồng thời, phấn đấu để sản phẩm được công nhận OCOP 3 sao và tiếp tục nỗ lực để nâng sao cho sản phẩm. |
“Hiện nay, sản phẩm mỳ chũ của HTX tiêu thụ 80% là nội địa, được người tiêu dùng khắp mọi miền Tổ quốc rất ưa chuộng. Còn xuất khẩu thì mới đáp ứng được 20-25% vì sản phẩm thiếu” – ông Nguyễn Văn Nam – Giám đốc HTX sản xuất và tiêu thụ mỳ chũ Nam Thể cho hay. Mỳ chũ Bắc Giang là một trong không nhiều sản phẩm miền núi có được thị trường cho riêng mình. Cùng với mỳ chũ, nhiều địa phương miền núi đã đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông sản ra thị trường thế giới. Những năm vừa qua, xuất khẩu luôn là điểm sáng của nền kinh tế. Đóng góp cho thành tích đó là rất nhiều sản phẩm hàng hoá của đồng bào dân tộc thiểu số, sản phẩm hàng hoá của vùng núi, vùng còn khó khăn, có thể kể đến như vải thiều Lục Ngạn, nhãn và xoài của Sơn La... Bà Trần Thị Thanh Bình – Trưởng Phòng Xuất nhập khẩu hàng nông lâm thủy sản – Cục Xuất nhập khẩu – Bộ Công Thương cho biết: “Chúng tôi rất mừng vì bà con đồng bào dân tộc thiểu số đã biết và tham gia hoạt động xuất khẩu nông sản, góp phần quan trọng vào kinh tế nông nghiệp, đảm bảo lợi ích và thu nhập cho bà con”. |
Nhìn chung, xuất khẩu nông sản nói chung và xuất khẩu nông sản miền núi nói riêng có một thuận lợi là đó là mặt hàng thiết yếu và thị trường thế giới cần. Dù nhu cầu thế giới hiện nay đang đi xuống nhưng điểm thuận lợi là các mặt hàng như gạo, một số loại nông sản khác thì lại có nhu cầu tương đối cao. Thuận lợi nữa là ta có một diện tích và dải sản phẩm tương đối dồi dào, từ cây lương thực, ăn quả đến thủy sản, nông sản. Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam vươn lên trở thành một trong những cường quốc về nông sản. |
Vẫn còn khó khăn |
Thuận lợi là thế, song khó khăn trong tiêu thụ các sản phẩm này vẫn còn tương đối nhiều. Chia sẻ về bức tranh của nông sản miền núi hiện nay, chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy cho biết, dòng sản phẩm nông sản của đồng bào miền núi phía Bắc chủ yếu là trái cây của các địa phương như Bắc Giang, Sơn La, Lạng Sơn... Nông sản ở các địa phương này khó đặc trưng là rất dồi dào, song có một số thời điểm vẫn bị ép giá, đặc biệt khi vào thời kỳ thu hoạch rộ. Tây Nguyên cũng giống như các tỉnh miền núi phía Bắc, có rất nhiều loại nông sản nhưng trục nông sản xuất khẩu như tiêu, cà phê cao su đang thuận lợi. Giá các loại này đang lên. Đối với việc tiêu thụ, hiện nay 45% tổng sản lượng nông sản của miền núi phía Bắc và Tây Nguyên là tiêu dùng tại chỗ, còn xuất khẩu và bán ra vùng miền khoảng 25-28%. Như vậy sản phẩm mà chúng ta có thể gọi là “lúc lên xuống” là khoảng 27-30%. Bên cạnh đó, các khu vực này có đặc trưng là xa trung tâm, điều kiện đi lại khó khăn nên việc vận chuyển hàng hóa cũng gặp khó. Chưa kể, sản lượng sản phẩm chưa lớn, đặc biệt là các loại đặc sản ngon và đặc thù như gạo Séng Cù, gạo Bát Xát, sâm Ngọc Linh, vải không hạt... |
“Vì sản lượng chưa nhiều nên nảy sinh vấn đề giả mạo nhãn hiệu, giả mạo thương hiệu, vừa ảnh hưởng đến người tiêu dùng, vừa ảnh hưởng đến người sản xuất” – chuyên gia Hoàng Trọng Thủy chỉ rõ. Ngoài ra, nhãn mác, thương hiệu và truyền thông cho nông sản miền núi còn hạn chế. Đặc biệt là các HTX, người dân, chủ trang trại sử dụng nền tảng số để giao dịch còn ít. Hình ảnh làm sao, đóng gói như thế nào còn hạn chế. Đây là lý do khiến sản phẩm tiêu thụ còn khó khăn. “Ngoại trừ một số địa phương đã làm tốt thương hiệu thời gian qua như Sơn La, Bắc Giang… nhiều loại nông sản của các địa phương vẫn rơi vào tình trạng được mùa mất giá khi đến mùa thu hoạch rộ. Hoặc khó khăn trong đầu ra. Với bà con khu vực miền núi, những khó khăn này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tiêu thụ và thu nhập” – ông Hoàng Trọng Thủy nói. |
Tăng cường hỗ trợ cho nông sản miền núi |
Phải khẳng định, việc hỗ trợ bà con khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc tiêu thụ nông sản là trách nhiệm chung của các Bộ ngành, địa phương. Do đó, để khơi thông dòng chảy tiêu thụ nông sản khu vực này, cần rất nhiều giải pháp đồng bộ. Theo đó, ông Hoàng Trọng Thủy cho biết, giải pháp đầu tiên là phát triển hạ tầng giao thông giữa giữa vùng nguyên liệu sản xuất đến trung tâm tiêu thụ sản phẩm của bà con. Do các địa phương miền núi ở quá xa khu vực trung tâm nên sau khi bà con thu hoạch quả cam, quả dứa, quả bưởi đưa vào sọt, vào bao rồi vận chuyển, khiến hoa quả va vào nhau, xuống cấp nhanh chóng, tiêu thụ khó. Cho nên nếu không đầu tư hạ tầng giao thông thì chất lượng sản phẩm sẽ kém và tạo kẽ hở cho tư thương, chủ vựa hạ giá thành sản phẩm. “Dưới góc độ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các vấn đề sản xuất, quy hoạch, tiêu chuẩn, khuyến nông đã làm nhưng cần làm nhiều hơn nữa. Để có chất lượng thì toàn bộ hoạt động khuyến nông phải được làm bài bản, trước đây khuyến nông từng hộ thì giờ khuyến nông các tổ hợp tác, HTX để có chuỗi giá trị và liên kết. Trước đây là 1 khâu thì giờ phải theo chuỗi cho đến khi sản phẩm ra thị trường” – ông Thủy nói. |
Ông Thủy cũng so sánh, Việt Nam hiện có gần 1 triệu ha hoa trái, sản lượng 11,5 – 12 triệu tấn nhưng kim ngạch xuất khẩu của ta chỉ đạt 3,37 tỷ USD. Trong khi đó, Thái Lan có 5 triệu tấn rau quả nhưng kim ngạch xuất khẩu của họ đạt 8,37 tỷ USD. Sản lượng bằng một nửa nhưng giá trị xuất khẩu của họ gần gấp 3 của mình. Như vậy, Bộ Nông nghiệp và Phát triển phải tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật, đưa tiến bộ khoa học vào để nâng chất lượng cho nông sản miền núi. Ngoài ra, hiện nay, công nghệ bảo quản và kho lạnh thiếu, chợ đầu mối thiếu, trong khi đó, phải có công nghệ thì rau quả mới đảm bảo chất lượng. “Đã gọi là lương thực thực phẩm thì ai cũng muốn tươi, ngon, sạch, chất lượng từ khi hái đến khi đến bàn ăn là không chênh lệch. Do đó, việc ứng dụng công nghệ là không thể thiếu” – ông Thủy chia sẻ. |
“Người Việt Nam ở các quốc gia nhiều, họ vừa là cầu nối, vừa là thông tin viên, họ hiểu đâu là thị trường đích, sản lượng bao nhiêu, tiềm năng bao nhiêu… Nắm được thông tin sẽ nắm được thị trường, còn nếu không thì sẽ khó có thể mở được trục cho tiêu thụ nông sản” – ông Hoàng Trọng Thủy nhấn mạnh. Ngoài ra, phải kiên trì bằng mọi giá để thiết lập hệ thống bán lẻ, phân phối. Cần xây dựng các điểm trung chuyển rau quả, nơi đó có kho lạnh, có công nghệ để xác định tiêu chuẩn của sản phẩm xuất khẩu. Làm được như vậy thì nông sản sẽ bảo quản được tốt hơn, nâng cao giá trị khi đến tay người tiêu dùng. Về phía Bộ Công Thương, bà Trần Thanh Bình cho hay, Bộ Công Thương đã và đang tập trung triển khai các giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường trong nước và xuất khẩu cho sản phẩm miền núi. Trong đó, Bộ Công Thương chia làm 4 giải pháp. Thứ nhất là chủ động cung cấp thông tin và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp để tạo điều kiện lưu thông tốt nhất cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chỉ đạo hệ thống Thương vụ Niệt Nam ở nước ngoài bám sát và cập nhật thông tin từ thị trường xuất khẩu, từ đó cập nhật thông tin kịp thời cho thị trường trong nước và các Hiệp hội, doanh nghiệp được biết về chính sách thay đổi, thị hiếu để các địa phương chủ động chuyển hướng sản xuất theo nhu cầu thị trường. Nhóm nhiệm vụ thứ 2 là phát triển các giải pháp xúc tiến thương mại, đặc biệt là xúc tiến thương mại các sản phẩm của đồng bào miền núi ở cả thị trường trong nước và xuất khẩu để tăng nhận diện các sản phẩm ở chợ truyền thống và siêu thị, đặc biệt là nông sản có tính mùa vụ cao như vải thiều, nhãn... |
“Đối với thị trường nước ngoài, Bộ Công Thương đã đẩy mạnh các giải pháp xúc tiến thương mại truyền thống và xúc tiến thương mại thông qua công nghệ số. Miền núi có đặc trưng vị trí không thuận lợi so với vùng Trung du Bắc bộ và các khu vực phát triển như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội nên áp dụng các nền tảng công nghệ số sẽ giúp bà con quảng bá sản phẩm của mình đến với người tiêu dùng nước ngoài tốt hơn” – bà Trần Thanh Bình Trưởng Phòng Xuất nhập khẩu hàng nông lâm thủy sản – Cục Xuất nhập khẩu – Bộ Công Thương cho biết. Nhóm giải pháp thứ 3 là đào tạo tập huấn thông qua các hội nghị hội thảo đến các HTX. Đồng thời phối hợp các Sở Công Thương để trang bị cho các Hội Nông dân, Hợp tác xã về kiến thức hội nhập, nghiệp vụ ngoại thương, hợp đồng ngoại thương… Thông qua các buổi tập huấn, Bộ Công Thương cũng ban hành cẩm nang hướng dẫn xuất khẩu rau quả chính ngạch sang Trung Quốc. Trong đó có rất nhiều kiến thức cơ bản để phục vụ cho bà con. Nhóm cuối cùng là công tác thông tin truyền thông về những FTA cho bà con nông dân và HTX để tận dụng tối đa các cơ hội từ hội nhập. Ngoài ra, bà Trần Thanh Bình cho rằng, khi nền kinh tế hội nhập thì việc có được các thương hiệu là rất quan trọng. Để chủ động xây dựng và định vị được thương hiệu thì phải bắt nguồn từ sự chủ động xây dựng thương hiệu từ doanh nghiệp, địa phương và cơ quan quản lý nhà nước. |
Trên thực tế, đã có 1 số địa phương xây dựng được thương hiệu cho nông sản như vải thiều Lục Ngạn, Mỳ chũ Bắc Giang… nhưng số lượng thương hiệu còn khiêm tốn. Do đó, Bộ Công Thương đã xây dựng các chương trình truyền thông thương hiệu cho sản phảm Việt Nam như ngũ cốc, chè, rau quả, trái cây, hạt tiêu hạt điều, cà phê… để giúp các sản phẩm vươn ra thị trường thế giới. Khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc vốn là khu vực yếu thế, việc phát triển kinh tế khu vực này không chỉ tạo sinh kế cho bà con mà còn góp phần giảm nghèo bền vững. |