
Những câu chuyện giảm nghèo thành công ở cao nguyên đá Đồng Văn, Mèo Vạc, Vị Xuyên hay Hoàng Su Phì, tỉnh Tuyên Quang cho thấy rõ: Liên kết sản xuất - tiêu thụ không chỉ là mô hình kinh tế hiệu quả, mà còn là sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy của bà con dân tộc thiểu số.
Tại xã Đông Thọ, Hợp tác xã Sáng Nhung được xem là điển hình trong việc chuyển từ mô hình nông hộ nhỏ lẻ sang sản xuất tập trung, hiện đại. Ông Nguyễn Ngọc Sáng, Chủ tịch Hợp tác xã chia sẻ: “Khi đã là nông hộ, trang trại sản xuất hàng hóa mà sản xuất không tập trung thì tiêu thụ sản phẩm vô cùng khó”.
Từ nhận thức đó, Hợp tác xã Sáng Nhung đã tái cấu trúc toàn bộ chuỗi sản xuất. Với triết lý “sạch từ trang trại tới bàn ăn, ngon từ chất - thật từ tâm”, đơn vị đầu tư đồng bộ từ chọn giống, phối trộn thức ăn có dược liệu, xây dựng chuỗi giết mổ, chế biến, đóng gói và phân phối sản phẩm. Kết quả là hàng loạt sản phẩm đạt chứng nhận OCOP, trong đó thịt lợn thảo dược của Hợp tác xã đoạt giải Mai An Tiêm năm 2024, nằm trong Top 50 sản phẩm uy tín, chất lượng Việt Nam.

Bên cạnh đó, đơn vị còn tận dụng phụ phẩm, chất thải chăn nuôi để sản xuất phân bón hữu cơ, đây là hướng sản xuất tuần hoàn mà ít hợp tác xã quy mô nhỏ nào có đủ năng lực thực hiện. “Chúng tôi liên kết với một tập đoàn nước ngoài để sản xuất ba mã phân bón hữu cơ. Mọi thứ trong chuỗi đều được tận dụng”, ông Sáng nói.
Nhờ liên kết, người dân tham gia sản xuất cùng hợp tác xã không còn lo “được mùa mất giá”, không phải tự tìm đầu ra. Những hộ từng nuôi vài chục con lợn, nay yên tâm mở rộng quy mô khi có doanh nghiệp bao tiêu, hỗ trợ kỹ thuật và truy xuất nguồn gốc rõ ràng.
Trên cao nguyên đá Đồng Văn, Công ty TNHH Trường Anh (xã Lũng Phìn) lại nổi bật với chuỗi sản xuất - tiêu thụ mật ong hoa Bạc hà. Phó Giám đốc Công ty TNHH Trường Anh, Nguyễn Ánh Vân cho biết: “Chúng tôi bao tiêu sản phẩm cho hàng trăm hộ dân nuôi ong, hỗ trợ kỹ thuật, vật tư và hướng dẫn quy trình đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu”. Nhờ vậy, nhiều hộ người H’mông có thu nhập ổn định 150 - 200 triệu đồng/năm, thoát nghèo bền vững.
Tuy nhiên, bà Vân cũng thẳng thắn nhìn nhận: “Có đối tác Nhật yêu cầu nhập khẩu mỗi tháng một container 20 tấn mật ong, trong khi sản lượng của chúng tôi chỉ hơn 10 tấn/năm nên chưa thể đáp ứng và đã để vuột mất đơn hàng”. Điều này cho thấy quy mô vùng nguyên liệu nhỏ và tính mùa vụ vẫn là rào cản lớn trong chuỗi giá trị này.

Hiệu quả kinh tế - xã hội của các mô hình liên kết đã được chứng minh khi bà con có đầu ra ổn định, giá trị sản phẩm tăng, kỹ năng sản xuất được nâng cao, môi trường sinh kế bền vững hơn. Nhưng thực tế cho thấy, sợi dây liên kết vẫn còn mong manh, dễ đứt nếu thiếu quy hoạch, thiếu vốn và thiếu nhân lực.
Vùng nguyên liệu phân tán, sản xuất manh mún, địa hình phức tạp khiến việc tổ chức sản xuất tập trung và áp dụng cơ giới hóa gặp nhiều trở ngại. Chất lượng sản phẩm và truy xuất nguồn gốc cũng chưa đồng đều. Giám đốc Hợp tác xã Sáng Nhung cho biết, đơn vị từng triển khai hệ thống 10.000 mã sản phẩm nhưng buộc phải cắt giảm xuống 6.500 mã vì một số không đảm bảo truy xuất. Việc kiểm soát đầu vào, quy trình sản xuất và lưu trữ dữ liệu vẫn là khâu yếu, ảnh hưởng trực tiếp đến niềm tin thị trường và khả năng mở rộng xuất khẩu.

Thiếu nhân lực kỹ thuật và quản trị cũng là vấn đề nổi cộm. Ông Lý Thành Nhân, Đại diện Hợp tác xã Chế biến Chè Phìn Hồ (xã Hoàng Su Phì) cho hay: “Nguồn nhân lực trẻ vùng cao ít, nhiều người rời quê đi làm thuê, khiến doanh nghiệp khó tìm người kế cận, đặc biệt trong các khâu chế biến, quản lý chất lượng và thương mại điện tử”.

Bên cạnh đó, biến động thị trường và khí hậu thất thường tiếp tục là thách thức. Chính sách hỗ trợ còn thiếu đồng bộ. Chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành nhận định, dù đã có các chương trình khuyến công, xúc tiến thương mại, song nhiều doanh nghiệp nhỏ vẫn khó tiếp cận vốn ưu đãi, khó hoàn thiện hồ sơ OCOP hay chỉ dẫn địa lý. Cơ chế liên kết “ba nhà” (Nhà nước - Doanh nghiệp - Nhà nông) ở nhiều nơi mới dừng ở ký kết, chưa đi vào thực chất.

Liên kết sản xuất - tiêu thụ chỉ bền khi được dẫn dắt bằng quy hoạch, hỗ trợ thực chất và cam kết dài hạn. Doanh nghiệp, hợp tác xã, người dân và chính quyền đều có vai trò riêng, nhưng quan trọng nhất là sự đồng hành có trách nhiệm.
Trước hết, cần quy hoạch vùng nguyên liệu và hoàn thiện chỉ dẫn địa lý. Đại diện Hợp tác xã Chế biến Chè Phìn Hồ kiến nghị: “Cần quy hoạch và mở rộng vùng nguyên liệu chè tập trung, hoàn thiện nhãn hiệu tập thể, chỉ dẫn địa lý, hệ thống truy xuất nguồn gốc bằng mã QR”. Khi có chỉ dẫn địa lý rõ ràng, sản phẩm vùng cao mới có thể bước vào thị trường lớn và bảo vệ thương hiệu trước hàng giả, hàng nhái.
Tiếp đó, cần hỗ trợ đầu tư chế biến sâu và hạ tầng cho hợp tác xã, doanh nghiệp. Ông Sáng cho biết: “Chúng tôi mua dây chuyền hơn 1 tỷ đồng, được khuyến công tỉnh hỗ trợ 300 triệu, đó là cú hích để mạnh dạn đầu tư”. Những khoản hỗ trợ tuy nhỏ nhưng tạo hiệu ứng lan tỏa, thúc đẩy đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng.

Đào tạo nhân lực và chuyển giao kỹ thuật tại chỗ cũng là yêu cầu cấp thiết. Cần các chương trình đào tạo nghề thực tế, tập trung vào kỹ năng canh tác hữu cơ, thú y, vận hành thiết bị, thương mại điện tử. Doanh nghiệp có thể phối hợp với trường nghề, trung tâm khuyến nông để tạo nguồn nhân lực ngay tại địa phương, thu hút thanh niên vùng cao trở về lập nghiệp, yếu tố then chốt để duy trì chuỗi liên kết.
Song song đó, hợp tác xã và doanh nghiệp cần ký kết bao tiêu minh bạch, có điều kiện rõ ràng. Ông Sáng nói: “Chúng tôi chỉ ký bao tiêu cho các chủ thể có chứng nhận, có mã truy xuất rõ ràng”. Đây là cách bảo vệ thương hiệu và thúc đẩy sản xuất theo tiêu chuẩn.
Bên cạnh đó, cần tăng cường kết nối liên tỉnh, đưa sản phẩm OCOP, nông sản đặc trưng vào siêu thị, sàn thương mại điện tử. “Nhiều gian hàng trong hội chợ tôi mới biết đến, chưa ký được hợp đồng nguyên tắc bao tiêu. Rõ ràng, chúng ta vẫn thiếu những diễn đàn kết nối thực chất”, ông Sáng bày tỏ quan điểm.
Khuyến khích sáng tạo sản phẩm, phát triển giá trị gia tăng cũng là hướng đi cần thiết. Thành Sơn mở hướng với mỹ phẩm từ trà Shan tuyết; Sáng Nhung sản xuất phân bón hữu cơ từ phụ phẩm, minh chứng rằng chế biến sâu không chỉ tăng thu nhập, mà còn nâng tầm thương hiệu địa phương. Cùng với đó là bảo tồn nguồn gen bản địa, phát triển bền vững cây chè cổ thụ, cây Bạc hà hay đàn ong vùng cao, kết hợp mô hình du lịch trải nghiệm nông nghiệp để tăng giá trị dịch vụ, giữ chân người dân với nghề truyền thống.
Có thể thấy, những mô hình thực tế đã chứng minh: Liên kết sản xuất - tiêu thụ là con đường hiệu quả giúp bà con dân tộc vươn lên, làm giàu trên chính mảnh đất của mình.
Tuy nhiên, liên kết chỉ bền khi đi cùng trách nhiệm và cam kết thật. Ông Sáng bày tỏ: “Nông nghiệp phải làm thật, không thể làm thử, làm qua loa, làm thử sẽ dễ gãy, dễ hỏng”.
Câu nói ấy cũng là thông điệp chung cho mọi chính sách phát triển nông nghiệp vùng cao hôm nay. Liên kết không chỉ là ký hợp đồng hay dán tem OCOP; đó là quá trình đồng hành lâu dài, nơi doanh nghiệp dám đầu tư, chính quyền dám bảo trợ, và người dân dám làm, dám giữ chữ tín.
Nếu các bên cùng chia sẻ trách nhiệm, minh bạch thông tin và kiên trì đầu tư vào con người, đặc biệt là thế hệ trẻ vùng cao thì mô hình liên kết này sẽ không chỉ giúp thoát nghèo, mà còn tạo chuỗi giá trị bền vững, mang bản sắc văn hóa vùng miền, đưa sản phẩm địa phương vươn ra thị trường quốc gia và quốc tế.
Liên kết sản xuất và tiêu thụ hàng hóa được nhận định là giải pháp quan trọng vừa giúp doanh nghiệp vùng cao có đủ nguồn nguyên liệu cho sản xuất, vừa hỗ trợ bà con, nhất là người dân tộc thiểu số cải thiện sinh kế, thậm chí giảm nghèo bền vững.




