Từ gian khó đến chuyển mình của cộng đồng miền núi
Trên những triền núi Nam Trung Bộ, nơi cộng đồng Raglai đã gắn bó bao đời với rừng, với đất, bức tranh cuộc sống đang nhuộm thêm những gam màu mới. Từng được biết đến như một vùng du cư, sống chủ yếu dựa vào thiên nhiên, đồng bào Raglai hôm nay đã "thay da, đổi thịt" bằng tinh thần vượt khó, tinh thần đoàn kết và sự đồng hành kiên trì từ chính sách của Nhà nước. Như đánh dấu một bước chuyển quan trọng, bà con Raglai không còn chỉ trông chờ vào hỗ trợ, mà đã chủ động lao động, mạnh dạn thử nghiệm cái mới, học cách ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, làm du lịch sinh thái gắn với văn hóa truyền thống để mở rộng nguồn thu.

Đồng bào Raglai hôm nay đã thay da đổi thịt bằng tinh thần vượt khó, tinh thần đoàn kết và sự đồng hành kiên trì từ chính sách của Nhà nước.
Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường Khánh Hòa cho biết, đồng bào Raglai trong tỉnh chủ yếu sống bằng nông nghiệp kết hợp chăn nuôi. Nhiều chương trình lớn đã tạo thành “trục lực” phát triển tại vùng đồng bào, từ xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội đến các dự án hỗ trợ phụ nữ dân tộc thiểu số. Những dự án ấy không chỉ mở đường giao thông, đưa nước về thôn bản, mà còn mang đến cho người dân cách thức sản xuất mới, tư duy mới và niềm tin mới.
Hệ thống dự án trải dài từ thủy lợi, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, xây dựng vùng chuyên canh đến triển khai cánh đồng mẫu lớn, hay mô hình chăn nuôi gia súc vỗ béo… đã chạm đến từng hộ dân. Nhờ vậy, những thửa đất cằn cỗi được thay bằng diện mạo mới, những mô hình sản xuất từng bước định hình rõ ràng, tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Điều đáng mừng nhất là đồng bào Raglai ở Khánh Hòa giờ không còn hộ đói, hầu hết các hộ khó khăn về nhà ở đã được hỗ trợ dựng mới hoặc sửa chữa, để thực sự “an cư, lạc nghiệp”.
Hành trình làm nên thương hiệu núi rừng
Giữa dòng thay đổi ấy, những người trẻ Raglai đang trở thành điểm sáng với tinh thần dám nghĩ, dám làm. Họ biết nhìn vào thế mạnh của quê hương và khởi nghiệp từ chính những sản vật quen thuộc của núi rừng.
Một trong những ví dụ tiêu biểu là chàng trai Mấu Văn Tịnh ở xã Tây Khánh Sơn. Sinh ra trong vùng trồng nhiều cà phê, anh hiểu hơn ai hết hương vị đặc trưng của cà phê Khánh Sơn. Nhưng suốt nhiều năm, bà con chỉ bán cà phê hạt cho thương lái, không có thương hiệu riêng. Điều này khiến thu nhập của họ bị hạn chế và sản phẩm địa phương khó tạo được dấu ấn trên thị trường. Sự trăn trở của Tịnh đã trở thành nguồn cảm hứng để anh bắt tay xây dựng thương hiệu “Raglai coffee”.

Sản phẩm khởi nghiệp của thanh niên huyện Khánh Sơn tham gia Hội chợ triển lãm, quảng bá sản phẩm thanh niên khởi nghiệp vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tỉnh.
Năm 2020, khởi đầu từ những hạt cà phê trong vườn nhà, Mấu Văn Tịnh chọn cách đi chậm mà chắc. Anh tỉ mỉ từng khâu, từ chọn quả đúng độ chín, phơi nhanh để giữ hương vị, đến chế biến thành hai dòng sản phẩm cà phê bột và cà phê hạt nguyên chất mang thương hiệu “Raglai coffee”. Ra mắt trong bối cảnh thị trường cạnh tranh mạnh, sản phẩm của anh gặp không ít khó khăn khi tiêu thụ. Nhưng thay vì bỏ cuộc, anh mang cà phê đi giới thiệu đến từng quán trong xã, trong vùng và ra tận Nha Trang cùng nhiều địa phương khác. Anh tận dụng mạng xã hội, lập trang “Raglai coffee” để chia sẻ câu chuyện của mình và quảng bá sản phẩm rộng rãi hơn.
Tại các lễ hội trái cây Khánh Sơn gần đây, gian hàng nhỏ của Tịnh luôn đông khách. Anh pha chế tại chỗ, cho du khách uống thử và lắng nghe từng đánh giá. Hương vị đậm đà, đặc trưng của cà phê Raglai khiến nhiều người mua mang về làm quà, thậm chí liên hệ để hợp tác lâu dài. Từ nỗ lực bền bỉ ấy, gần 5 năm sau, thương hiệu “Raglai coffee” đã được thị trường biết đến nhiều hơn, đơn hàng ngày càng tăng. Không chỉ chế biến cà phê từ vườn nhà, anh còn thu mua của bà con trong vùng để giúp họ có đầu ra ổn định.
Không chỉ cà phê, núi rừng Khánh Hòa còn sản sinh những sản vật mang dấu ấn riêng. Tại phường Khánh Vĩnh, câu chuyện của chị Nguyễn Thị Ngân cũng cho thấy sự chuyển động mạnh mẽ trong tư duy làm kinh tế của đồng bào. Bắt đầu từ năm 2019, gia đình chị thu mua mật ong rừng của người dân rồi bán cho khách hàng gần xa. Khi sản lượng tăng, thu nhập của bà con ổn định hơn, chị quyết tâm xây dựng thương hiệu “Ngân Nguyễn” vào năm 2022 để mở rộng thị trường và tạo thêm việc làm cho người địa phương.

Mật ong rừng Khánh Vĩnh được khách hàng đánh giá cao.
Mật ong rừng Khánh Vĩnh được khách hàng đánh giá cao nhờ hương thơm tự nhiên, vị ngọt thanh và sự an toàn trong quá trình chế biến. Trung bình cơ sở cung cấp 30 - 40 lít mỗi tháng, phục vụ cả thị trường trong tỉnh, khu vực lân cận và các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh. Chị Ngân cho biết, mong muốn lâu dài là đổi tên sản phẩm thành mật ong rừng Khánh Vĩnh, để nhấn mạnh nguồn gốc và đặc trưng của địa phương.
Công đoạn sản xuất mật ong của gia đình chị tuân thủ nghiêm ngặt vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Từ khi thu mua về, mật được lọc tạp chất, nhỏ giọt tự nhiên, khử trùng chai và đóng gói cẩn thận. Một mẻ mật hoàn chỉnh phải mất 1 - 2 ngày mới xong, bởi phải chờ bọt khí lắng hoàn toàn. Sự chỉn chu trong từng bước giúp sản phẩm được người tiêu dùng tin tưởng và đánh giá cao.
Nhịp sản xuất tuân theo mùa của núi rừng. Mật ong được khai thác chủ yếu mùa nắng, từ tháng 2 đến tháng 6 hằng năm; mùa mưa bà con không thể lên rừng. Cơ sở luôn ghi rõ ngày tháng, số lượng để theo dõi chất lượng từng mẻ mật. Việc phân chia nhiều dung tích, từ chai nhỏ 100.000 đồng đến loại lớn hơn cũng giúp khách hàng dễ tiếp cận.
Những câu chuyện khởi nghiệp chỉ là lát cắt trong bức tranh rộng lớn về sự đổi thay ở vùng đồng bào Raglai. Điểm tựa quan trọng phía sau là nguồn lực từ Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Theo báo cáo của Sở Dân tộc và Tôn giáo Khánh Hòa, năm 2025 chương trình phân bổ gần 553 tỷ đồng; tính đến ngày 31/10, đã giải ngân hơn 219,5 tỷ đồng, đạt gần 40% kế hoạch.
Nhờ sự kết hợp giữa chính sách kịp thời và nỗ lực của chính người dân, đời sống vật chất, tinh thần vùng đồng bào đang dần cải thiện. Nhiều mô hình sản xuất hiệu quả được nhân rộng, góp phần thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và mặt bằng chung của tỉnh.
Theo thống kê, tỉnh Khánh Hòa hiện có 600 sản phẩm OCOP đạt chuẩn từ 3 sao trở lên còn thời hạn công nhận, với sự tham gia của 274 chủ thể. Cơ cấu sản phẩm chủ yếu thuộc nhóm thực phẩm (71,7% - 430 sản phẩm) và đồ uống (18,2% - 109 sản phẩm).





