Khẩn trương xây dựng Luật về phát triển công nghiệp
Tin hoạt động 29/06/2022 14:57
Sáng nay (29/6), Bộ Công Thương đã tổ chức Tọa đàm khoa học: “Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ trương, chính sách công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải phát biểu tại tọa đàm |
Việt Nam lên nhóm “các nền kinh tế công nghiệp mới nổi”
Phát biểu tại tọa đàm Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải nhấn mạnh, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là mục tiêu xuyên suốt của Đảng và Nhà nước từ Đại hội III đến nay. Qua 35 năm kiên trì thực hiện mục tiêu này, công nghiệp Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhất định. Công nghiệp chế biến chế tạo ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế, với mức đóng góp trong GDP tăng từ 13% năm 2010 lên 16,7% năm 2020.
“Cơ cấu ngành công nghiệp đã chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giảm dần tỉ trọng các ngành thâm dụng tài nguyên, các ngành công nghệ thấp, tăng dần tỷ trọng các ngành công nghệ trung bình và công nghệ cao. Năng lực cạnh tranh công nghiệp đã được cải thiện đáng kể, Báo cáo cạnh tranh công nghiệp của UNIDO đã đưa Việt Nam từ nhóm “các nền kinh tế đang phát triển” lên nhóm “các nền kinh tế công nghiệp mới nổi”- Thứ trưởng khẳng định.
Tuy vậy, Thứ trưởng chỉ ra, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn vừa qua vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Thứ nhất, nội lực của nền công nghiệp trong nước còn yếu, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp trong nước chưa cao, giá trị gia tăng tạo ra còn thấp, nền công nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào các nguồn lực bên ngoài.
Thứ hai, nguồn nhân lực công nghiệp còn yếu kém, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo thấp, thiếu tính liên kết giữa khu vực sản xuất với các cơ sở đào tạo, đội ngũ lãnh đạo các doanh nghiệp công nghiệp còn thiếu kinh nghiệm cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, thiếu nền tảng lý thuyết khoa học về quản trị sản xuất, không có cơ hội tiếp cận với các phương pháp quản lý sản xuất hiệu quả.
Thứ ba, trình độ công nghệ của doanh nghiệp công nghiệp trong nước còn hạn chế, đa số các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng ngoài cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, với sự tiếp cận ở mức độ thấp đối với tất cả các trụ cột của một nền sản xuất thông minh.
Thứ tư, sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn về tiếp cận vốn. Bản chất của khu vực sản xuất đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn dài hạn, trong khi nguồn lực xã hội đầu tư vào sản xuất rất hạn chế do thời gian thu hồi vốn chậm, lợi nhuận biên kém hấp dẫn so với đầu tư vào lĩnh vực khác như bất động sản, tài chính.
GS.TS Nguyễn Quang Thuấn - Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận trung ương phát biểu tại tọa đàm |
Nhìn nhận về quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, GS.TS Nguyễn Quang Thuấn - Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận trung ương cho rằng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng nhiều mục tiêu, chính sách, giải pháp tuy nhiên chưa đáp ứng được yêu cầu. “Đơn cử doanh nghiệp - thành phần kinh tế tham gia công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại các địa phương như ở Bắc Ninh, Đồng Nai, Bình Dương phát triển công nghiệp rất tốt trên mọi phương diện. Nhưng tất cả những địa phương này chủ yếu là doanh nghiệp FDI chiếm trên 70% xuất nhập khẩu. Rõ ràng nếu xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa chỉ dựa vào kinh tế FDI thì liệu có vững chắc không và để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ có đảm bảo không?”- GS.TS Nguyễn Quang Thuấn đặt câu hỏi.
Thông tin thêm về nội dung này, ông Trương Thanh Hoài - Cục trưởng Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) cho biết, tác nhân chính để tạo ra chuyển dịch cơ cấu và giá trị trong công nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp FDI chứ không phải là các doanh nghiệp trong nước. Đặc biệt, các doanh nghiệp 100% vốn FDI đang đóng vai trò chủ đạo trong xuất khẩu và tăng trưởng của Việt Nam. Mối liên hệ, kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước lỏng lẻo, không tạo ra tác động lan tỏa giữa khu vực FDI và khu vực kinh tế trong nước, dẫn đến tình trạng “một quốc gia, hai nền kinh tế”.
Chính sách phát triển công nghiệp vẫn còn điểm nghẽn
Ông Trương Thanh Hoài cũng nêu thêm những bất cập của ngành công nghiệp, cụ thể chính sách phát triển công nghiệp của Việt Nam còn dàn trải, việc bố trí nguồn lực cho phát triển công nghiệp chưa đủ mạnh, chưa tạo điều kiện thuận lợi tối đa để công nghiệp phát triển, trong đó, quan trọng nhất là nhận thức về đối tượng cần hướng đến của các chính sách phát triển công nghiệp là khu vực kinh tế tư nhân chưa được chú trọng. Ngoài ra, các lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo là các lĩnh vực Nhà nước sẽ không đóng vai trò chủ đạo mà là các doanh nghiệp tư nhân – trong đó 98% là các doanh nghiệp nhỏ và vừa).
Ông Trương Thanh Hoài- Cục trưởng Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) báo cáo tại tọa đàm |
“Bên cạnh đó, phần lớn các địa phương còn rất thụ động trong việc triển khai thực hiện chính sách phát triển công nghiệp quốc gia. Thậm chí, còn có tình trạng địa phương còn có các chủ trương, chính sách chưa phù hợp với chủ trương của Trung ương về phát triển các ngành công nghiệp”- lãnh đạo Cục Công nghiệp cho hay.
Ông Ngô Đức Minh - Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Công Thương) nêu ý kiến tại tọa đàm |
Phân tích sâu hơn về chính sách phát triển công nghiệp, ông Ngô Đức Minh - Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Công Thương) bày tỏ, do thiếu cơ sở pháp lý ở tầm quốc gia, việc phân bổ nguồn lực cho cơ chế, chính sách cho phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm, chủ lực là rất thấp, có nơi thậm chí không có cơ chế, chính sách ưu đãi hoặc phân bổ nguồn lực hoặc nếu có thì nguồn lực không tạo đủ xung lực cần thiết để thúc đẩy phát triển đột phá. Ngoài ra, pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể về thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị ngành đối với một số hoạt động phát triển công nghiệp gắn với điều tiết nguồn lực, sự hỗ trợ của Nhà nước.
“Pháp luật hiện hành về nâng cao sức cạnh tranh cho các ngành công nghiệp nền tảng thông qua đẩy mạnh áp dụng, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số còn rời rạc, hiệu lực pháp lý thấp hoặc chưa được xây dựng. Đồng thời chưa có quy định cụ thể về cơ chế thúc đẩy, phối hợp chính sách một cách có lộ trình theo hướng phát triển bền vững trong sản xuất công nghiệp phù hợp với xu hướng phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh, sản xuất xanh, bền vững”- ông Ngô Đức Minh chỉ ra.
Liên quan đến vấn đề thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp, bà Đỗ Anh Thư - Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch cho biết, việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp thời gian qua còn nhiều hạn chế và phát sinh những vấn đề mới. “Liên kết của khu vực đầu tư nước ngoài với khu vực trong nước và hiệu ứng lan tỏa chưa cao. Thu hút và chuyển giao công nghệ từ khu vực đầu tư nước ngoài chưa đạt được hiệu quả như kỳ vọng. Đầu tư nước ngoài từ các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) vào lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, công nghệ mới, tiên tiến còn hạn chế”- bà Đỗ Anh Thư nói.
Chia sẻ cụ thể hơn về điểm nghẽn chính sách, ông Lê Ngọc Đức - Phó Chủ tịch Tập đoàn Thành Công bày tỏ, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đi sau một số nước trong khu vực, nên gặp nhiều khó khăn, thách thức. Chính vì vậy cần nhận diện những doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh để tập trung chính sách ưu đãi, hỗ trợ. “Ngành công nghiệp ô tô là ngành công nghiệp chế biến chế tạo, tích hợp của nhiều ngành công nghệ cao, công nghệ chế tạo, công nghệ cơ khí, điện tử, viễn thông. Do vậy, cần định vị lại vai trò, vị trí của ngành công nghiệp ô tô theo hướng ô tô là một trong những lĩnh vực công nghệ cao để có chính sách phát triển tương xứng, còn hiện nay ô tô đang phát triển bình thường nên chưa phát triển được”- ông Lê Ngọc Đức lý giải.
Ông Lê Ngọc Đức - Phó Chủ tịch Tập đoàn Thành Công phát biểu tại tọa đàm |
Ông Lê Ngọc Đức nhấn mạnh, tiến tới thúc đẩy dung lượng thị trường để đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ, đầu tư, sản xuất, công nghiệp chế biến chế tạo. “Nếu dung lượng nhỏ quá thì không đảm bảo giá thành cạnh tranh, nên cần có chính sách mang tính kế thừa ổn định, lâu dài, kéo theo phát triển công nghiệp ô tô”- đại diện lãnh đạo Tập đoàn Thành Công nêu quan điểm.
Lấy công nghiệp làm đòn bẩy kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác
Với những vấn đề còn tồn tại nêu trên của ngành công nghiệp Việt Nam nếu không được giải quyết, năng lực cạnh tranh của Việt Nam sẽ không được cải thiện. Các yếu tố cho tăng trưởng ở giai đoạn trước sẽ không còn phát huy được tác dụng trong giai đoạn tới, khi đó nguy cơ mắc bẫy thu nhập trung bình càng trở nên hiện hữu, Việt Nam sẽ khó đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp, nước phát triển như mục tiêu đặt ra.
Theo Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải, Nghị quyết Đại hội XIII đã xác định mục tiêu đến năm 2025, tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo trong GDP đạt 25%, và đặt ra nhiệm vụ: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, và “Cơ cấu lại công nghiệp, nâng cao trình độ công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi sang công nghệ số, nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế, có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu”. Đây là mục tiêu khá thách thức, đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong thời kỳ mới”- Thứ trưởng nhấn mạnh.
Góp ý cụ thể hơn, ông Trương Thanh Hoài nêu giải pháp, cần quán triệt tới từng cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp, từ Trung ương đến địa phương về tầm quan trọng của công nghiệp hóa trong quá trình hiện đại hóa đất nước, xác định tập trung các nguồn lực của quốc gia để phát triển công nghiệp, lấy công nghiệp làm đòn bẩy kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác, thay vì các chính sách dàn trải cho các ngành kinh tế như hiện nay. “Xác định rõ các tiêu chí về công nghiệp hoá để làm căn cứ xây dựng các mục tiêu cụ thể và lộ trình rõ ràng cho giai đoạn tới. Các tiêu chí phải đảm bảo cả về quy mô và chất lượng của phát triển công nghiệp, đồng thời cũng phải định vị được Việt Nam trong bức tranh toàn cầu”- ông Trương Thanh Hoài nêu cụ thể.
Lãnh đạo Cục Công nghiệp cũng lưu ý, phải hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy cơ quan Nhà nước về phát triển công nghiệp, thực hiện nguyên tắc “một cơ quan thực hiện nhiều việc và một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính” theo đúng tinh thần của Nghị quyết 18/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Đồng thời, đối tượng hướng đến của các chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam cần đặt trọng tâm vào thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghiệp lớn tiềm năng và hệ thống doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 98% số lượng doanh nghiệp trong nước. Tập trung các nguồn lực để thúc đẩy hình thành các tập đoàn công nghiệp tư nhân lớn, đóng vai trò dẫn dắt hệ thống doanh nghiệp công nghiệp nội địa và vươn ra thị trường khu vực.
Đại diện Vụ pháp chế cũng cho rằng, trước những đòi hỏi của thực tế phát triển các ngành công nghiệp, hệ thống pháp luật công nghiệp trong giai đoạn tới đây cần đảm bảo thể chế hóa, khẳng định vai trò của Nhà nước trong tiếp tục khơi tạo không gian, dòng chảy, tạo dựng nền tảng cho công nghiệp phát triển.
Theo đó, hệ thống pháp luật phải tạo ra cơ chế, chính sách, động lực nắm bắt, tận dụng, tương tác cộng sinh các xu hướng phát triển về công nghiệp trên thế giới và khu vực để thu hút, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, thúc đẩy nâng tầm phát triển công nghiệp trong nước.
“Đồng thời khẩn trương thể chế hóa thông qua Luật hóa các quan điểm, chủ trương mới của Đảng về phát triển công nghiệp. Trong đó, khẩn trương xây dựng Luật về phát triển công nghiệp, mảnh ghép quan trọng chứa đựng các biện pháp thúc đẩy phát triển còn thiếu trong hệ thống pháp luật về công nghiệp. Hiện Bộ Công Thương đang trình Chính phủ và Quốc hội về Dự thảo luật này”- lãnh đạo vụ Pháp chế nói.