Khai thác tài chính tài sản trí tuệ, động lực thúc đẩy kinh tế tư nhân

Khai thác tài chính tài sản trí tuệ theo tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW, mở ra cơ hội biến tri thức thành nguồn vốn, tạo động lực cho đổi mới sáng tạo, thúc đẩy kinh tế tư nhân.

Tài sản trí tuệ và tiềm năng khai thác tài chính trong kinh tế thị trường

Theo Luật sư Dương Thị Vân Anh, Phó Giám đốc Công ty Luật TNHH Vietthink, Nghị quyết số 68-NQ/TW được Bộ Chính trị ban hành ngày 4/5/2025 đã xác định, phát triển kinh tế tư nhân là động lực trọng yếu, nhấn mạnh tháo gỡ rào cản, hoàn thiện thể chế và tạo môi trường thuận lợi. Trong đó, việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, khởi nghiệp sáng tạo và ứng dụng khoa học, công nghệ đóng vai trò quan trọng.

Tuy nhiên, khai thác tài chính tài sản trí tuệ, thành quả từ đổi mới sáng tạo vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Ở Việt Nam, tài sản trí tuệ hiện mới được gắn với quyền sở hữu trí tuệ theo Luật Sở hữu trí tuệ, bao gồm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.

Dù Thông tư liên tịch số 39/2014/TTLT-BKHCN-BTC ngày 17/12/2014 của Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Tài chính về định giá kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tài sản trí tuệ đã công nhận đây là tài sản vô hình có khả năng mang lại lợi ích kinh tế, song khái niệm tài sản trí tuệ vẫn chưa thật sự thống nhất.

Luật sư Dương Thị Vân Anh, Phó Giám đốc Công ty Luật TNHH Vietthink (áo đỏ). Ảnh: T. Việt

 Luật sư Dương Thị Vân Anh, Phó Giám đốc Công ty Luật TNHH Vietthink (áo đỏ). Ảnh: T. Việt

Trong thực tiễn, khai thác tài chính tài sản trí tuệ chủ yếu diễn ra qua hoạt động kinh doanh hoặc các giao dịch thương mại dân sự như cấp phép sử dụng, chuyển nhượng, nhượng quyền, M&A, góp vốn. Tài sản trí tuệ chưa được thừa nhận đầy đủ như một loại tài sản có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán, làm tài sản thế chấp hoặc ghi nhận vào sổ sách kế toán.

Trong khi đó, thế giới đã phát triển nhiều mô hình khai thác tài sản trí tuệ như thế chấp tài sản trí tuệ, chứng khoán hóa hay bán, cho thuê lại. Những cơ chế này không chỉ giúp chủ sở hữu đa dạng hóa nguồn vốn mà còn nâng cao giá trị tài sản vô hình, gắn kết tri thức với thị trường tài chính.

“Nghị quyết 68 đặt ra yêu cầu hoàn thiện khung pháp lý, số hóa quy trình quản lý, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, hỗ trợ doanh nghiệp đăng ký trong và ngoài nước, đồng thời đổi mới tín dụng để chấp nhận cả tài sản vô hình làm bảo đảm. Điều này mở ra hướng đi rõ ràng để tài sản trí tuệ trở thành công cụ tài chính hữu hiệu, góp phần thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển”, luật sư Dương Thị Vân Anh nhấn mạnh.

Giải pháp hoàn thiện trong khai thác tài chính tài sản trí tuệ

Cũng theo luật sư Dương Thị Vân Anh, dù Nghị quyết 68 đã định hướng rõ, nhưng hệ thống pháp luật hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế. Thứ nhất, chưa có quy định cụ thể và đồng bộ về tài sản trí tuệ cùng các hình thức khai thác tài chính. Thứ hai, thiếu bộ tiêu chí định giá chuẩn hóa, khiến việc sử dụng tài sản trí tuệ để vay vốn, chứng khoán hóa hay ghi nhận kế toán gặp nhiều trở ngại. Thứ ba, cơ chế xử lý tài sản thế chấp bằng tài sản trí tuệ chưa rõ ràng, gây rủi ro cho bên cho vay.

Trên thực tế, giá trị tài sản vô hình trên thế giới đã tăng mạnh, đạt 80 nghìn tỷ USD vào năm 2024, vượt xa tài sản hữu hình. Trong khi đó, doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là khối tư nhân, phần lớn vẫn dựa vào tài sản hữu hình để huy động vốn, còn tài sản trí tuệ như thương hiệu, bí quyết kinh doanh, sáng chế lại chưa được công nhận đầy đủ. Điều này làm giảm cơ hội tiếp cận vốn, đặc biệt với doanh nghiệp nhỏ, vừa và khởi nghiệp.

Khai thác tài chính tài sản trí tuệ có ý nghĩa chiến lược đối với tăng trưởng kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong thời đại số. Ảnh minh họa: Hà Trang

Khai thác tài chính tài sản trí tuệ có ý nghĩa chiến lược đối với tăng trưởng kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong thời đại số. Ảnh minh họa: Hà Trang

Để khắc phục, cần xây dựng hướng dẫn định giá tài sản trí tuệ chi tiết, thống nhất và dễ áp dụng, giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong việc dùng tài sản trí tuệ làm thế chấp. Bên cạnh đó, việc thiết lập sàn giao dịch tài sản trí tuệ minh bạch là giải pháp quan trọng để công khai hóa giá trị, giảm thiểu rủi ro và tạo niềm tin cho các tổ chức tài chính.

Một cơ chế bảo hiểm cho tài sản trí tuệ cũng rất cần thiết nhằm chia sẻ rủi ro với ngân hàng, từ đó hạ thấp chi phí vay vốn cho doanh nghiệp. Đồng thời, việc phát triển hệ sinh thái cho vay dựa trên tài sản trí tuệ khép kín gồm cơ quan xác lập quyền, tổ chức tài chính, đơn vị định giá và bảo hiểm sẽ tạo nền tảng vững chắc cho việc thương mại hóa tài sản vô hình.

Chính sách hỗ trợ đặc biệt đối với ngân hàng tiên phong trong cho vay dựa trên tài sản trí tuệ như ưu đãi vốn hoặc khuyến khích thành lập quỹ đầu tư, cũng là đòn bẩy quan trọng. Khi đó, tài sản trí tuệ không chỉ được công nhận về mặt pháp lý mà còn thực sự trở thành nguồn lực tài chính hữu hình, đồng hành cùng sự phát triển của kinh tế tư nhân.

Vì vậy, khai thác tài chính tài sản trí tuệ có ý nghĩa chiến lược đối với tăng trưởng kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong thời đại số và công nghệ AI. Để biến tiềm năng thành hiện thực, Việt Nam cần đồng bộ hóa pháp luật, tiêu chuẩn định giá, cơ chế tài chính và hệ sinh thái hỗ trợ.

“Khi rào cản được tháo gỡ, tài sản trí tuệ sẽ không còn là nguồn lực “ẩn” mà trở thành động lực then chốt, giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn dễ dàng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững. Đây cũng chính là tinh thần xuyên suốt mà Nghị quyết 68-NQ/TW đặt ra nhằm khơi thông nguồn lực trí tuệ, thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá, góp phần xây dựng nền kinh tế tri thức cho Việt Nam trong tương lai”, Luật sư Dương Thị Vân Anh nhận định.

Trên thực tế, giá trị tài sản vô hình trên thế giới đã tăng mạnh, đạt 80 nghìn tỷ USD vào năm 2024, vượt xa tài sản hữu hình. Trong khi đó, doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là khối tư nhân, phần lớn vẫn dựa vào tài sản hữu hình để huy động vốn, còn tài sản trí tuệ như thương hiệu, bí quyết kinh doanh, sáng chế lại chưa được công nhận đầy đủ. Điều này làm giảm cơ hội tiếp cận vốn, đặc biệt với doanh nghiệp nhỏ, vừa và khởi nghiệp.

Hải Sơn
Bình luận

Có thể bạn quan tâm