Giảm nghèo bền vững - Vẫn là một thách thức lớn

Tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm từ 22% năm 2005 xuống còn khoảng 7,6% năm 2013. Tuy nhiên, các xã miền núi, vùng dân tộc thiểu số (DTTS) tỷ lệ hộ nghèo vẫn chiếm tới 50% trong tổng số hộ nghèo cả nước. Thực tế này cho thấy, để giảm nghèo bền vững, còn rất nhiều vấn đề cần được quan tâm, giải quyết.

CôngThương - Khi chính sách thiếu thực tế

Trực tiếp tham gia thiết kế chương trình giảm nghèo từ những năm 2000, ông Lê Anh Vũ - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển vùng - cho rằng: Với vùng đồng bào DTTS, để giảm nghèo bền vững, thay vì “cho xâu cá”, hãy cho người dân “cái cần câu”. Cần câu ở đây chính là tạo cho người dân có cơ hội được tiếp cận với chuỗi sản xuất, với nguồn lực, với các yếu tố để tăng trưởng. “Đại đa số người dân khổ là do năng suất sản xuất thấp. Chính vì vậy, người không có đất nghèo đã đành, người sở hữu đất đai rộng lớn vẫn nghèo vì không biết áp dụng những tiến bộ khoa học, vì bí đầu ra cho sản phẩm...”.

Thực tế chúng ta có tới 16 chương trình mục tiêu quốc gia liên quan đến giảm nghèo, nhưng không phải chính sách nào cũng thực sự phát huy hiệu quả. Một trong những mặt hạn chế của các chính sách này là do nhiều quy định trong chính sách được xây dựng không phù hợp với thực tế. Ông Triệu Hồng Sơn - Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Ủy ban Dân tộc (UBDT) nêu ví dụ: Một số thôn, bản, để đi ra UBND xã lấy được 30.000 đồng hỗ trợ tiền điện, hoặc 15 kg gạo cứu đói, bà con phải đi mất cả vài chục nghìn tiền xe ôm; hay có gia đình có tới 7 chứng chỉ dạy nghề, nhưng không có ai làm nghề đã được dạy; có hộ được vay tới 200 triệu đồng nhưng vẫn... nghèo!”.

Theo Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm UBDT Hà Hùng, sở dĩ các chính sách có nhiều yếu tố chưa phù hợp là vì ngay cả việc khảo sát để xây dựng chính sách, chúng ta đã... thiếu thực tế: Quá trình khảo sát mới nhìn vào thu nhập, mà bỏ quên những yếu tố cực kỳ quan trọng, đó là văn hóa, phong tục tập quán của người dân. Trong khi thực tế, có những người dân không nghèo tiền nhưng lại đói văn hóa, đói các dịch vụ điện, đường, trường, trạm. Có nhiều vùng đồng bào nghèo không hẳn do không tiếp cận được vốn, kỹ thuật mà vì tục lệ ma chay dài ngày, lễ hội quanh năm, rượu chè vô độ… dẫn đến sản xuất trì trệ, đói nghèo triền miên”...

Khơi dậy nội lực để thoát nghèo

Kết quả đánh giá công tác giảm nghèo tại một số địa phương gần đây hé lộ một thực tế đáng buồn, đó là tình trạng luân chuyển các hộ dân trên địa bàn vào danh sách hộ nghèo hàng năm để được hưởng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Tỷ lệ hộ tái, phát sinh nghèo hàng năm còn cao. Bình quân cứ 3 hộ thoát nghèo thì có 1 hộ tái nghèo, phát sinh nghèo. Thực trạng này cho thấy, thay vì khơi dậy nội lực trong đồng bào, chính sách hỗ trợ trực tiếp của nhà nước ta lâu nay đã dẫn tới tư tưởng ỷ lại, trông chờ của người dân.

Xoay quanh vấn đề này, Tiến sĩ Nguyễn Cao Thịnh - Phó Vụ trưởng Vụ Tổng hợp (UBDT) nhìn nhận, để chính sách gần dân và đạt hiệu quả cao nhất, cần lưu ý tới vấn đề sinh kế. Trong đó, sinh kế phải phù hợp với nguồn lực, trình độ, tập quán, lối sống của người dân. Bởi bà con dân tộc vùng Tây, Bắc, Tây Nguyên, hay Tây Nam Bộ mỗi nơi một phong tục, tập quán khác nhau. “Có những thói quen đã tồn tại hàng trăm năm, không thể một sớm một chiều mà bà con thay đổi. Nhưng nếu có những hình thức tuyên truyền phù hợp để người dân hiểu, tham gia, đồng thời nhận thấy những lợi ích thiết thực mà chính sách mang lại thì người dân sẽ có trách nhiệm hơn trong việc vươn lên thoát nghèo” - Thứ trưởng Hà Hùng khẳng định.

Về vấn đề vốn - yếu tố quan trọng trong công tác giảm nghèo, Phó Viện trưởng Lê Anh Vũ cho rằng: Bên cạnh nguồn vốn từ ngân sách, nguồn vốn xã hội cũng hết sức quan trọng, phải giúp bà con tiếp cận được nguồn vốn này. Đó là để bà con tham gia vào nhóm nghề nghiệp, nhóm sở thích, tổ chức tiêu thụ sản phẩm cho bà con. “Kinh tế đất nước không ngừng tăng trưởng, nhưng hiện nhiều đồng bào không được tham gia vào quá trình tăng trưởng này, ít được hưởng lợi ích từ quá trình tăng trưởng. Đây không chỉ là thiệt thòi của bà con, mà còn ảnh hưởng rất lớn đến công cuộc giảm nghèo”. Ông Vũ đơn cử: Thủy điện nhỏ được triển khai ồ ạt, nhưng lợi ích nó mang lại chỉ cho 1 nhóm nhỏ, trong khi đó rừng đầu nguồn bị chặt hạ, ảnh hưởng lớn đến đời sống của nhiều người dân, trong đó chủ yếu là đồng bào dân tộc.       

P.V

Bình luận