
Gặp gỡ chiến sĩ Thành cổ: Huyền thoại không viết bằng lời mà bằng máu và tuổi trẻ
Từ cơn địa chấn phòng vé đến ký ức máu lửa thành cổ Quảng Trị
Những ngày gần đây, ký ức về trận chiến 81 ngày đêm bảo vệ thành cổ Quảng Trị đang một lần nữa trở lại với công chúng qua bộ phim "Mưa đỏ".
“Mưa đỏ” là bộ phim truyện điện ảnh về đề tài chiến tranh cách mạng, kịch bản của nhà văn Chu Lai, lấy cảm hứng và hư cấu từ sự kiện 81 ngày đêm chiến đấu anh dũng, kiên cường của nhân dân và cán bộ, chiến sĩ bảo vệ thành Cổ Quảng Trị năm 1972.

Phim "Mưa đỏ". Ảnh minh họa
Ngày Quốc khánh đã qua, tiết thu đã dịu, nhưng trước các rạp lớn ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh hay Đà Nẵng, dòng người vẫn ken đặc.
"Mưa đỏ" đang tạo nên cơn địa chấn phòng vé. Bộ phim về cuộc chiến 81 ngày đêm tại thành cổ Quảng Trị của tiểu đoàn K3 Tam Sơn đã liên tục vượt qua những mốc doanh thu hàng trăm tỷ đồng, trở thành hiện tượng chưa từng thấy của điện ảnh Việt Nam. Từ một bộ phim được đầu tư từ nguồn ngân sách của Quân đội, với đề tài hoàn toàn không mang tính thương mại, khá kén người xem, nhưng đã liên tục lập kỷ lục về doanh thu, tạo hiệu ứng lan tỏa rộng rãi trong khán giả cả nước.
Theo số liệu của đơn vị thống kê doanh thu phòng vé độc lập Box Office Việt Nam, tính đến 18 giờ ngày 11/9, doanh thu vé rạp của “Mưa đỏ” đạt 601,991 tỷ đồng.
"Mưa đỏ" thu hút khán giả ở đủ mọi lứa tuổi. Độ hot của phim khiến tôi không thể bỏ qua. Trong bóng tối của rạp chiếu, tôi ngồi lặng đi khi chứng kiến từng cảnh bom rơi như trút, đất đá tung lên, Thành cổ chìm trong biển lửa, máu hòa với nước sông Thạch Hãn. Tiếng gầm của pháo, tiếng thét của người lính, tiếng kêu khóc bị chôn vùi dưới khói lửa, tất cả hiện ra như một bản tráng ca.
Bộ phim thành công trong việc tái hiện bức tranh chiến trường dữ dội.
Sau bộ phim, tôi tìm về những người lính từng chiến đấu trong 81 ngày đêm ấy để được nghe và hiểu rõ hơn về sự khốc liệt của chiến trường Quảng Trị. Ông ngoại tôi là Nguyễn Đồng Khởi, ông từng là lính trinh sát thuộc Lữ đoàn xe tăng 202, từng trực tiếp sống và chiến đấu ở Quảng Trị khi ấy.
“Phim hay, khắc họa chân thực, nhưng chưa phải tất cả khốc liệt của chiến trường năm ấy”, ông tôi nói. Khoảnh khắc ấy, dường như tôi hiểu được tại sao ông không bao giờ kể quá nhiều về chiến trường. Có lẽ, những gì ông trải qua khốc liệt đến mức khó mà gọi tên trọn vẹn bằng lời.
Ông tôi mang ra một chiếc cặp cũ bạc màu thời gian. Bên trong là bức thư viết dở gửi về quê nhà, vài tấm ảnh chụp cùng đồng đội, tấm nào cũng loang lổ vết ố. Ông chậm rãi đặt chúng lên bàn, như đặt lại cả một phần tuổi trẻ.
Ông tôi - đồng chí Nguyễn Đồng Khởi, lính trinh sát thuộc Lữ đoàn xe tăng 202 ngày mới nhập ngũ (năm 1971).
“Ngày đó, thành cổ phải gánh hàng triệu tấn bom đạn Mỹ trút xuống. Có những hôm, đất trời như muốn nổ tung. Lính trinh sát như ông, mỗi lần bò qua bức tường đổ nát là một lần đối mặt với cái chết. Đạn pháo nổ sát bên, khói bụi che kín mắt, chỉ cần chậm vài giây là không còn cơ hội trở về”, ông cất giọng, trầm khàn nhưng rõ ràng.
Tôi lặng đi. Mỗi câu ông kể như kéo tôi trở về mùa hè đỏ lửa ấy. Những chi tiết tưởng chừng đơn giản, vết sẹo dài trên cánh tay, chiếc cặp đựng thư, bức ảnh bạn bè bỗng trở thành chứng tích sống động của một quá khứ quá đỗi dữ dội.
Khốc liệt và bất khuất
Ông tôi nói, trong 81 ngày đêm, từng mét đất, từng góc tường của thành cổ đều in dấu máu xương. “Có hôm, mỗi mét vuông đất hứng hàng chục quả đạn. Người ngã xuống nhiều đến mức, chỉ kịp kéo ra một góc, rồi tiếp tục chiến đấu. Nước sông Thạch Hãn ngày ấy đỏ ngầu, cuốn theo bao nhiêu đồng đội chưa kịp chôn”, ông nhớ lại.
Lính trinh sát như ông thường phải bò đi trong bóng đêm, len lỏi giữa những đống gạch vụn, mang về thông tin cho đơn vị. Mỗi bước đi là một lần đặt cược sinh mạng. “Đã nhiều lần ông trườn qua người đồng đội vừa ngã xuống, không được dừng lại. Nếu dừng, sẽ mất thông tin, đơn vị phía sau sẽ không còn đường tiến. Chiến tranh khốc liệt là vậy”.

Ông Nguyễn Đồng Khởi chia sẻ với phóng viên Báo Công Thương.
Không chỉ ông ngoại tôi, nhiều cựu binh khác cũng mang ký ức ấy. Ông Trần Ngọc Thể, nguyên chiến sĩ vận tải, nay sống tại Hải Phòng, chia sẻ: “Chúng tôi chở đạn, chở lương thực vào thành cổ. Đường vào như lưới lửa, mỗi chuyến xe coi như một lần cược mạng. Nhưng ai cũng sẵn sàng”.
Có chuyến xe, ông kể, phải chạy giữa trưa nắng để kịp giờ tiếp viện. “Bọn tôi trùm bạt ngụy trang bằng lá cây, từng mét đường là từng cái bẫy chết người. Xe chở đạn mà trúng một quả pháo thôi thì cả tổ sẽ hóa thành tro. Lúc ấy, ai cũng nghĩ chỉ còn biết phó mặc, nhưng tay vẫn siết chặt vô lăng, chân vẫn đạp ga”.
Ông Thể nhớ như in một đêm tháng Bảy. “Pháo sáng quét ngang, cả đoàn buộc phải tắt máy, nằm rạp xuống đường. Đạn cày đất tung lên, có anh bị sức ép hất văng xuống ruộng, tưởng không sống nổi. Vậy mà khi im tiếng pháo, anh lồm cồm bò dậy, máu đầy mặt, chỉ cười: ‘Đạn chưa trúng tim thì còn chở tiếp’”.

Ông Trần Ngọc Thể chia sẻ với phóng viên Báo Công Thương.
Trong ký ức của những người cựu chiến binh ấy, những ngày ở thành cổ, cơm chẳng có, chỉ là nắm gạo rang nhai vội. Nước cũng hiếm, phải hớp từ hố bom, nhiều khi mùi khét thuốc súng còn nồng. “Ông và các đồng đội sống từng giờ, từng phút. Sáng thức dậy chẳng ai chắc còn sống đến tối. Nhưng không ai chùn bước. Trong đầu ông và đồng đội chỉ nghĩ, còn người là còn thành”, ông ngoại tôi nhớ lại.
Câu nói ấy, tôi tin, chính là tinh thần bất khuất đã giữ Quảng Trị đứng vững suốt 81 ngày đêm. Giữa bão lửa, những người lính trẻ vẫn ngẩng cao đầu. Giữa khói bom, họ vẫn hát, vẫn viết thư, vẫn tin vào ngày chiến thắng.
Nghe ông kể, tôi rùng mình. Dẫu đã hơn nửa thế kỷ, âm vang của trận chiến vẫn còn nguyên. Ông nâng bàn tay chai sần, chỉ vào vết sẹo dài hằn trên cánh tay: “Đây là kỷ niệm của một lần trinh sát, mảnh pháo sượt qua. Đau lắm, nhưng nghĩ đến đồng đội phía sau, ông vẫn phải bò tiếp. Không có lựa chọn nào khác”.
Ông tôi kể, 81 ngày đêm ấy, cả nước hướng về Quảng Trị. Ở một chiến tuyến khác, trong ký ức của ông Nguyễn Kiên Cường, người từng canh giữ tại cảng Hải Phòng, nơi tiếp nhận vũ khí và lương thực viện trợ từ các nước bạn cũng khắc sâu hình ảnh máu và hoa của một thời đạn bom. Ông Cường nhớ lại: “Cảng Hải Phòng lúc đó như một túi lửa. Chúng tôi vừa bốc dỡ hàng, vừa căng mắt quan sát bầu trời. Chỉ cần chậm trễ, những chuyến hàng ấy không đến được Quảng Trị, đồng đội trong kia sẽ phải cầm cự bằng tay không”.
Ông Cường nhớ rõ mùi khét của sắt thép, vị mặn của mồ hôi hòa trong khói bom. “Chúng tôi coi mỗi đêm giữ được bến tàu là một lần giành giật sự sống cho đồng đội trong thành cổ. Có hôm, cảng sáng rực như ban ngày vì pháo sáng, nước biển đục ngầu bùn đất và dầu tràn. Nhưng anh em không ai lùi. Đạn có rít bên tai cũng mặc, tay vẫn chuyền từng thùng hàng”.
“Chúng tôi không trực tiếp ở chiến hào, nhưng từng thùng hàng bốc dỡ dưới mưa bom chính là nhịp thở của Thành cổ. Biết bao anh em đã ngã xuống ở bến cảng, thân xác hòa vào biển, để chuyến hàng kịp rời bến. Đó cũng là một mặt trận, nơi sự hy sinh lặng thầm nhưng không kém phần dữ dội”, ông Cường xúc động kể lại.
Nhìn ông Cường lặng đi khi nhắc tới những đồng đội không trở về, tôi chợt thấy mọi khoảng cách thời gian như tan biến. Tiếng sóng cảng Hải Phòng đêm ấy dường như vẫn vọng về, hòa vào tiếng sóng sông Thạch Hãn nơi thành cổ. Từ chiến hào rực lửa đến bến tàu mịt mù khói đạn, tất cả đều chung một nhịp tim: giữ vững mạch tiếp tế, giữ trọn từng tấc đất. Chính dòng chảy lặng lẽ ấy đã nối liền hậu phương và tiền tuyến, để mỗi chuyến hàng, mỗi hơi thở, trở thành một phần máu thịt của Quảng Trị.

Ông Nguyễn Kiên Cường chia sẻ với phóng viên Báo Công Thương.
Có lẽ, chính những con người như ông ngoại tôi, ông Thể hay ông Cường - những người lính vô danh, thầm lặng nhưng kiên cường đã làm nên bản anh hùng ca Quảng Trị 1972. Họ không viết nên huyền thoại bằng lời, mà bằng máu, bằng tuổi trẻ, bằng cả sinh mạng gửi lại dòng sông Thạch Hãn.
Những ngày tháng ấy, Quảng Trị không còn là một vùng đất, mà là một chiến trường ngập trong bom đạn, máu và nước mắt. Nhưng giữa ranh giới mong manh của sống - chết, người lính vẫn bước lên, bởi hơn ai hết họ hiểu rõ, được chiến đấu cho độc lập dân tộc là vinh dự lớn nhất trong cuộc đời mình.
Ông tôi cười nhẹ, ánh mắt xa xăm: “Khốc liệt là vậy, mất mát là vậy, nhưng ông và đồng đội chưa bao giờ nghĩ đó là nỗi sợ. Trái lại, được ra trận, được cầm súng, được hòa mình vào dòng chảy của dân tộc trong giờ phút ấy, đó là niềm tự hào, là vinh dự mà thế hệ các ông nâng niu. Nhiều người đi không trở về, nhưng tất cả đều bước đi với tâm niệm ấy”.
Ngồi trước ông, tôi bỗng thấy rõ hơn giá trị của hòa bình. Nếu không có sự hy sinh ấy, làm sao có được những ngày bình yên hôm nay? Bộ phim "Mưa đỏ" gợi cho tôi hình dung, nhưng chỉ khi nghe lời kể của những người cựu chiến binh, tôi mới thực sự thấu cảm. Điện ảnh có thể tái hiện phần nào, nhưng chiến trường thật khốc liệt hơn nhiều lần.
“Các con, các cháu sinh ra trong hòa bình, đừng bao giờ quên. Những người đồng đội của ông đã ngã xuống để hôm nay các con được sống”, ông ngoại tôi nói. Giọng ông trầm mà dứt khoát, như một lời nhắn gửi cho tương lai.
Tôi chợt hiểu rằng, ký ức ấy không chỉ thuộc về những người cựu chiến binh mà tôi được gặp, mà còn thuộc về cả một thế hệ đã sống, đã chiến đấu và đã ngã xuống. Trong những ngày lặng im của hiện tại, vẫn còn vang vọng tiếng bom rền, tiếng thét xung phong và cả những lời thề son sắt của cha anh: "Còn người, còn thành".