Động lực tăng trưởng mới của kinh tế Việt Nam đến từ đâu?

Diễn đàn Kinh tế mới Việt Nam lần thứ 3 ghi nhận nhiều quan điểm từ doanh nghiệp và chuyên gia, nhấn mạnh vai trò của công nghệ, đổi mới sáng tạo và sức cầu nội địa.

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang chịu sức ép từ nhiều phía, câu hỏi đặt ra là đâu sẽ là động lực tăng trưởng mới. Diễn đàn Kinh tế mới Việt Nam lần thứ 3 (VNEF) 2025 do Ban Chính sách, chiến lược Trung ương và Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam đồng chỉ đạo đã ghi nhận nhiều quan điểm từ chuyên gia và doanh nghiệp, trong đó nhấn mạnh vai trò của công nghệ, đổi mới sáng tạo và sức cầu nội địa.

Doanh nghiệp và công nghệ là hạt nhân tăng trưởng

Doanh nghiệp được xem là hạt nhân trong động lực tăng trưởng mới.Từ doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) đến các tập đoàn lớn, từ công nghệ cao đến ngành truyền thống, tất cả đều phải đổi mới để giữ vai trò hạt nhân.

Thực tế tại Việt Nam, SMEs chiếm tới 98% tổng số doanh nghiệp cả nước, vì vậy họ là nền tảng của động lực tăng trưởng mới. Ông Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam nhấn mạnh vướng mắc lớn nhất hiện nay là tiếp cận vốn: “Dù Chính phủ đã nhiều lần chỉ đạo hạ lãi suất, khả năng tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn hạn chế do vướng mắc về thủ tục và điều kiện vay”. Theo ông, cần xây dựng cơ chế tín dụng hiện đại và tín chấp linh hoạt để doanh nghiệp có thể vay nhanh chóng qua online.

Ở góc độ doanh nghiệp lớn, vấn đề lại nằm ở quy mô thị trường. Ông Nguyễn Việt Thắng, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn Hòa Phát chia sẻ: “Các doanh nghiệp cơ khí nhỏ và vừa chỉ cần 10-20 tấn thép mỗi năm trong khi một mẻ sản xuất của Hòa Phát tối thiểu là 300 tấn”. Khoảng cách này cho thấy nếu thiếu ngành công nghiệp nền đủ mạnh và một thị trường đủ lớn thì cả doanh nghiệp cơ khí lẫn nhà sản xuất thép đều khó phát triển.

Ông Nguyễn Việt Thắng, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn Hòa Phát chia sẻ tại Diễn đàn

Ông Nguyễn Việt Thắng, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn Hòa Phát chia sẻ tại Diễn đàn

Không chỉ cải thiện vốn và thị trường, đổi mới công nghệ được coi là then chốt. Ông Nguyễn Chung Chính, Chủ tịch Tập đoàn Công nghệ CMC khẳng định động lực mới phải đến từ công nghệ số. Việt Nam đã nằm trong nhóm 5 quốc gia xuất khẩu phần mềm lớn nhất thế giới, song nếu chỉ gia công thì sẽ khó tạo giá trị cao. Ông nhấn mạnh cần xây dựng doanh nghiệp đầu tàu có khả năng làm chủ công nghệ, vươn lên trở thành thương hiệu toàn cầu và dẫn dắt chuỗi giá trị, đặc biệt trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo. “Doanh nghiệp công nghệ như chúng tôi không trông chờ vào hỗ trợ, nhưng nếu có “bệ đỡ” chính sách rõ ràng thì chắc chắn sẽ tăng tốc mạnh mẽ, đóng góp lớn hơn cho đất nước”, ông Chính kiến nghị.

Ngay cả ở những ngành truyền thống như dệt may, đổi mới cũng là yếu tố bắt buộc. Chủ tịch Tập đoàn Dệt may Việt Nam, Lê Tiến Trường cho rằng, dệt may dù tăng trưởng chậm lại nhưng vẫn đóng vai trò quan trọng với hàng triệu lao động. Để giữ sức cạnh tranh, ngành cần đẩy mạnh nội địa hóa nguyên liệu, đồng thời ứng dụng công nghệ số và tự động hóa để nâng năng suất và thu nhập. Ông kết luận: “Đó chính là cách làm mới động lực cũ của ngành dệt may”.

Thị trường nội địa là bệ đỡ của nền kinh tế

Song hành với vai trò của doanh nghiệp, các chuyên gia khẳng định thị trường trong nước sẽ là bệ đỡ cho nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới. Với hơn 100 triệu dân, Việt Nam thuộc nhóm thị trường lớn trên thế giới, sức mua ngày càng tăng.

Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký kiêm Trưởng ban pháp chế Liên đoàn thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho rằng Việt Nam không thể coi là một thị trường nhỏ. Ông dẫn chứng sự thành công của nhiều bộ phim nội địa như “Mưa đỏ”, khi đạt doanh thu 700 tỷ đồng và cạnh tranh sòng phẳng với phim Hollywood. Ông nhấn mạnh: “Hàng Việt đã chinh phục được người Việt, đây là nền tảng để doanh nghiệp tự tin phát triển, trước khi vươn ra thị trường quốc tế”.

Phiên thảo luận tại Diễn đàn Kinh tế mới Việt Nam lần thứ 3 (VNEF)

Phiên thảo luận tại Diễn đàn Kinh tế mới Việt Nam lần thứ 3 (VNEF)

Theo các báo cáo quốc tế, đến năm 2035, khoảng một nửa dân số Việt Nam sẽ gia nhập tầng lớp trung lưu. Đây là nhóm tiêu dùng quan trọng với sức mua lớn và yêu cầu chất lượng cao. Tuy nhiên, cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn khi hàng hóa từ Trung Quốc và các thị trường khác có thể “tràn” vào. Thách thức này buộc doanh nghiệp Việt phải nâng chất lượng, đầu tư thương hiệu và nắm rõ nhu cầu tiêu dùng nội địa.

Kinh nghiệm từ kinh tế số được ông Mã Tuấn Trọng, CEO Grab Việt Nam, chia sẻ. Grab coi Việt Nam là thị trường trọng điểm trong khu vực và đã đầu tư trung tâm công nghệ sáng tạo tại TP.HCM. Từ thực tiễn hoạt động, ông rút ra các giải pháp có thể áp dụng rộng rãi cho doanh nghiệp Việt khi khai thác thị trường nội địa cũng như khi vươn ra khu vực: Hợp tác đa phương giữa doanh nghiệp với nhau và với Nhà nước; xây dựng môi trường thử nghiệm an toàn cho đổi mới; đầu tư hạ tầng dữ liệu để khai thác hiệu quả nhưng vẫn bảo mật; tập trung vào nhu cầu thực tế của người dùng. 

GS.TS. Hoàng Văn Cường, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam nhấn mạnh: “Xuất nhập khẩuhàng hóa liên tục tăng, đưa Việt Nam vào nhóm 20 quốc gia thương mại hàng đầu thế giới. Chúng ta đã trở thành trung tâm sản xuất quan trọng trong các ngành dệt may, da giày, điện tử, với nhiều doanh nghiệp FDI quy mô toàn cầu lựa chọn Việt Nam là điểm đến”

Phương Thảo
Bình luận