
Doanh nghiệp Việt trước thách thức liên kết chuỗi cung ứng toàn cầu
Thể chế là nền tảng quyết định sự bền vững
Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, kinh tế Việt Nam đang đứng trước yêu cầu xây dựng chuỗi giá trị bền vững nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Chia sẻ về vấn đề này tại hội thảo Tăng cường liên kết thị trường, ổn định chuỗi cung ứng và cải thiện năng lực cạnh tranh”, do Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) tổ chức ngày 18/9, ông Bùi Quang Tuấn – nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nhấn mạnh, Việt Nam đã hội nhập rất sâu, nhưng năng lực nội tại vẫn còn hạn chế.
“Hiện nay, doanh nghiệp FDI chiếm tới 73% kim ngạch xuất khẩu. Trong khi đó, tỷ lệ doanh nghiệp nội địa tham gia chuỗi giá trị toàn cầu còn rất thấp. Một nghiên cứu của CIEM cho thấy tỷ lệ này là 21%, còn số liệu của Bộ Công Thương chỉ khoảng 2,5%. Dù con số nào, chúng ta vẫn thấy mức độ tham gia là quá thấp, hạn chế”, ông Tuấn nói.
Ông chỉ rõ, ba nguyên nhân chính khiến Việt Nam khó chen chân vào chuỗi giá trị: tỷ lệ nội địa hóa thấp; sự chuẩn bị chưa kỹ của doanh nghiệp; đặc biệt, thiếu liên kết giữa khối FDI và doanh nghiệp trong nước. Thực tế, nhiều doanh nghiệp FDI tự xây dựng chuỗi cung ứng khép kín, khiến doanh nghiệp Việt khó tham gia.

Ông Bùi Quang Tuấn – nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam
Trong xu thế toàn cầu hóa, chuỗi cung ứng không chỉ là vấn đề logistics mà còn liên quan trực tiếp tới tính minh bạch, bền vững và khả năng thích ứng của nền kinh tế. Việt Nam đang đối diện nhiều thách thức: chuỗi cung ứng nguyên liệu phụ thuộc lớn vào nhập khẩu; chi phí logistics cao hơn mức trung bình của khu vực; tình trạng đứt gãy cục bộ khi xảy ra biến động quốc tế; và sự thiếu chuẩn hóa trong quản trị chuỗi. Nếu không sớm khắc phục, doanh nghiệp Việt sẽ khó nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Theo ông Tuấn, muốn xây dựng chuỗi giá trị bền vững, không chỉ dựa trên ba trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường, mà cần bổ sung trụ cột thứ tư – thể chế. “Thể chế là nền tảng quyết định sự bền vững. Nếu thể chế không minh bạch, không hỗ trợ doanh nghiệp, mọi nỗ lực sẽ khó bền vững”, ông nhấn mạnh.
Ông cũng đề xuất: Nhà nước cần hoàn thiện chính sách, tạo môi trường thuận lợi; hiệp hội ngành hàng phát huy vai trò cầu nối, cung cấp thông tin, đào tạo và kết nối; còn doanh nghiệp phải chủ động tự nâng cao năng lực, có chiến lược rõ ràng khi tham gia chuỗi toàn cầu.
Xây dựng thương hiệu Việt vươn tầm quốc tế
Từ góc độ doanh nghiệp, chia sẻ tại hội thảo, ông Lê Nam Trung – Phó Giám đốc Công ty TNHH Xúc tiến Thương mại Hoàng Ân (TP. Hồ Chí Minh), cho biết, công ty đang hướng đến gia công xuất khẩu thép nhưng gặp nhiều rào cản.
“Khó khăn lớn nhất là thiếu hiểu biết về quy định của các thị trường xuất khẩu, cũng như hạn chế kinh nghiệm thực tiễn. Chúng tôi mong cơ quan chức năng minh bạch hóa cạnh tranh trong nước để doanh nghiệp có môi trường công bằng. Đồng thời, cần tạo cơ hội nhiều hơn cho doanh nghiệp tiếp xúc đối tác nước ngoài, cũng như tổ chức đào tạo chính thống để nâng cao năng lực hội nhập”, ông Trung chia sẻ.
Một ví dụ điển hình về chuỗi cung ứng cần bền vững là ngành trầm hương – được xem là “quốc bảo” của Việt Nam. Ông Hà Duyên Minh – Giám đốc Công ty TNHH Trầm hương Lotus Khánh Hòa cho biết: “Trầm hương hội tụ giá trị kinh tế, văn hóa, tâm linh và y học. Nhưng ngành trầm hương Việt Nam hiện vẫn khai thác tự phát, thiếu tiêu chuẩn quốc tế, chuỗi cung ứng chưa minh bạch, hàng giả hàng nhái tràn lan, gây tổn hại thương hiệu”.
Trong khi đó, ông Minh chỉ ra, các thị trường tiềm năng như Trung Đông, Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu đều yêu cầu cao về tính hợp pháp, minh bạch, bền vững. Nếu không tái cấu trúc chuỗi cung ứng, trầm hương Việt khó tiếp cận phân khúc cao cấp.

Ông Hà Duyên Minh – Giám đốc Công ty TNHH Trầm hương Lotus Khánh Hòa giới thiệu sản phẩm trầm hương - đặc trưng của tỉnh cho khách tham quan tại hội thảo.
Để thúc đẩy chuỗi cung ứng trầm hương bền vững, ông Minh đề xuất bốn giải pháp, một là, quy hoạch vùng nguyên liệu bền vững: phát triển các vùng trồng tập trung, áp dụng kỹ thuật gây trầm sinh học thay vì khai thác tự nhiên. Khuyến khích mô hình nông – lâm kết hợp, vừa bảo tồn rừng vừa tạo sinh kế.
Hai là, minh bạch nguồn gốc: chuẩn hóa quy trình từ giống cây, chăm sóc, khai thác, chế biến đến tiêu dùng. Áp dụng tem truy xuất nguồn gốc, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.
Ba là, liên kết chuỗi giá trị: hình thành hợp tác xã hoặc liên minh ngành hàng, kết nối nông hộ – doanh nghiệp chế biến – nhà phân phối – người tiêu dùng, đảm bảo lợi ích hài hòa.
Bốn là, xây dựng thương hiệu và xúc tiến quốc tế: xây dựng thương hiệu quốc gia cho trầm hương Việt dựa trên 3 giá trị cốt lõi là chất lượng – minh bạch – bền vững. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại qua các sàn thương mại điện tử toàn cầu (Alibaba, Amazon), tham gia hội chợ chuyên ngành, kể câu chuyện văn hóa – tâm linh gắn với trầm hương Việt.
“Để trầm hương Việt vươn ra thế giới, chúng ta không chỉ bán sản phẩm hương liệu, mà còn bán câu chuyện văn hóa, sự minh bạch và trách nhiệm môi trường. Chuỗi cung ứng bền vững chính là chìa khóa khẳng định thương hiệu Việt”, ông Minh nhấn mạnh.
Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cấp bách về xây dựng chuỗi giá trị bền vững. Đặc biệt, thị trường nội địa với hơn 100 triệu dân vẫn chưa khai thác hết tiềm năng do kết nối sản xuất, phân phối, tiêu dùng còn bất cập, sức chống chịu chuỗi cung ứng trước biến động toàn cầu hạn chế.
Theo đó, Bộ Công Thương cho rằng, tăng cường liên kết thị trường là then chốt để tạo dòng chảy thông suốt hàng hóa, giảm chi phí trung gian, nâng cao giá trị gia tăng. Một chuỗi cung ứng chặt chẽ, minh bạch, thích ứng sẽ giúp doanh nghiệp duy trì sản xuất liên tục, đáp ứng kịp thời nhu cầu trong nước và quốc tế.
Theo các chuyên gia, bên cạnh những thách thức, đây cũng là cơ hội để Việt Nam tái cấu trúc, nâng cao năng lực cạnh tranh và khẳng định thương hiệu quốc gia. Với sự vào cuộc của Nhà nước, hiệp hội và nỗ lực tự thân của doanh nghiệp, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng những chuỗi giá trị bền vững – nền tảng cho thương mại hiện đại và hội nhập quốc tế.