Định giá nông sản Việt: Cần sàn giao dịch hàng hóa quốc gia

Tại diễn đàn của ngành nông nghiệp với chủ đề 'Đồng hành cùng nông dân bước vào kỷ nguyên mới', các doanh nghiệp đề xuất nhiều giải pháp tháo gỡ “điểm nghẽn” nông sản Việt, từ thị trường đến chế biến.

Nhiều kiến nghị được gửi đến Tư lệnh ngành nông nghiệp

Tại Diễn đàn “Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam – Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường lắng nghe nông dân nói 2025” với chủ đề “Đồng hành cùng nông dân bước vào kỷ nguyên mới”, diễn ra sáng 2/11, ông Phan Minh Thông, Chủ tịch HĐQT Phúc Sinh Group, chia sẻ về thực trạng và cơ hội của nông sản Việt.

Diễn đàn Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam - Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường: Lắng nghe nông dân nói. Ảnh: NTNN

Diễn đàn Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam - Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường: Lắng nghe nông dân nói. Ảnh: NTNN

Ông Thông cho biết, doanh nghiệp của ông sở hữu thế mạnh xuất khẩu hồ tiêu và nằm trong top 5 xuất khẩu cà phê, với doanh thu trung bình 350 triệu USD mỗi năm, sản phẩm hiện diện tại 120 quốc gia. Việt Nam đứng trên “mỏ vàng” nông sản, nhưng vẫn tồn tại nhiều điểm nghẽn cần tháo gỡ.

Mặc dù là nước dẫn đầu thế giới về một số mặt hàng nông sản, Việt Nam lại chưa chủ động trong khâu bán hàng và giá cả thường khiêm tốn so với giá trị thực. Do đó, ông Phan Minh Thông đề xuất xây dựng Sàn Giao dịch hàng hóa Quốc gia.

“Nhiều quốc gia có sàn giao dịch cho các mặt hàng chuyên biệt, như hoa ở châu Âu. Chúng ta lại thiếu các sàn giao dịch cho những nông sản chủ lực như cà phê, gạo, hồ tiêu, thủy hải sản. Sàn giao dịch sẽ thu hút vốn, tạo việc làm và định hình giá trị thực cho nông sản Việt. Tiếp đó, cần đầu tư mạnh vào các nhà máy chế biến sâu tại vùng nguyên liệu”, ông Phan Minh Thông nhấn mạnh.

Ông Thông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của kiểm soát chất lượng từ vùng trồng, đồng thời nâng cao tiêu chí an toàn vệ sinh thực phẩm, trước mắt phục vụ tiêu dùng trong nước. Ông đặt câu hỏi đến Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường: “Bộ và Hội Nông dân sẽ hành động thế nào để nâng cao chất lượng nông sản, đáp ứng cả nhu cầu trong nước và xuất khẩu?”

Bà Nguyễn Thị Thành Thực, CEO Công ty Cổ phần Công nghệ Phần mềm AutoAgri, chỉ ra một số vướng mắc hiện nay. Thứ nhất, chi phí logistics và chế biến vẫn cao do hạ tầng chưa đáp ứng. Thứ hai, mặc dù chương trình OCOP – Mỗi xã một sản phẩm đã đạt nhiều thành công, việc xuất khẩu theo cách hiện tại sẽ gặp khó khăn nếu không có chiến lược dài hạn 5-10 năm tới. Thứ ba, quy hoạch đất đai cho chế biến nông nghiệp đang gặp hạn chế, đặc biệt tại các cụm công nghiệp. Yêu cầu diện tích tối thiểu (5.000m²) và giá đất cao (khoảng 4 triệu đồng/m²) khiến chi phí thuê đất lên đến 20 tỷ đồng, vượt khả năng nhiều doanh nghiệp nhỏ, nhất là các chủ thể OCOP.

Trước thực trạng này, bà Thực đề xuất mô hình cụm làng nghề, với quy mô 500 – 1.000m², phù hợp cho các chủ thể OCOP chung đầu tư. Mô hình đã thành công ở Trung Quốc và có tiềm năng lớn tại Việt Nam.

Bà cũng kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất Chính phủ quy hoạch ưu tiên, giá đất hợp lý, từ 3-5 triệu đồng/m² tại các tỉnh, thay vì mức 10 triệu đồng/m² như ở Hà Nội hiện nay.

Về hỗ trợ chế biến, bà Thực cho rằng, hiện nay còn tản mạn và hạn chế, với mức hỗ trợ tối đa 50% giá trị máy móc, không quá 300 triệu đồng, chưa đủ để đầu tư công nghệ hiện đại như sấy thăng hoa.

Bà cũng nhấn mạnh tiềm năng của cà phê Việt Nam, với sản lượng Robusta xuất khẩu đứng đầu thế giới và giá trị xuất khẩu tăng kỷ lục hơn 300% so với trước. Tuy nhiên, lĩnh vực cà phê đặc sản còn yếu và chưa xây dựng được thương hiệu. Các quốc gia mạnh về cà phê đều có sản phẩm đặc sản nổi tiếng cùng hiệp hội ngành hàng. Vì vậy, bà đề xuất thành lập Hiệp hội cà phê đặc sản nhằm khai thác giá trị tối đa cho sản phẩm Việt.

Trả lời các đề xuất, ông Ngô Trường Sơn, Chánh Văn phòng Điều phối Nông thôn mới Trung ương, nhấn mạnh, Chương trình OCOP được Thủ tướng Chính phủ ban hành từ năm 2018. Sau 7 năm, đã có gần 18.000 sản phẩm OCOP từ 3 sao trở lên, vượt chỉ tiêu 10.000 sản phẩm đến năm 2025. Chất lượng sản phẩm được nâng cao, với gần 9.000 chủ thể tham gia, trong đó 40% là hợp tác xã, 30% doanh nghiệp nhỏ, còn lại là hộ nông dân và cơ sở sản xuất.

Ông Sơn khẳng định, các chính sách hỗ trợ đã được triển khai, bao gồm đào tạo, tập huấn, thương mại, quảng bá sản phẩm. Quy hoạch chủ yếu do địa phương thực hiện, nhưng trong tiêu chí nông thôn mới cũng có hướng dẫn về cụm công nghiệp và làng nghề. “Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ phối hợp với các địa phương và cơ quan chuyên môn về đất đai để đưa ra chính sách thuê, mua bán đất phù hợp hơn”, ông Sơn chia sẻ.

Nông dân Việt Nam, trung tâm của Kỷ nguyên xanh nông nghiệp

Phát biểu kết luận diễn đàn, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho biết, Bộ xác định 3 đột phá chiến lược và 5 nhóm giải pháp hành động trọng tâm, nhằm biến “tiếng nói của nông dân” hôm nay thành “hành động của toàn hệ thống” ngày mai.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng phát biểu tại diễn đàn. Ảnh: NTNN

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng phát biểu tại diễn đàn. Ảnh: NTNN

Đột phá chiến lược được triển khai đồng bộ, gồm: Thể chế và chính sách; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; hạ tầng và logistics xanh. Ba trụ cột này là nền tảng cho nông nghiệp tuần hoàn, xanh và phát triển bền vững.

Để cụ thể hóa định hướng, Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định 5 nhóm giải pháp hành động, coi đây là “mạch nguồn liên kết sức mạnh quốc gia” là “công - nông - thương - trí - binh”.

Theo đó, về công (nhà nước) sẽ kiến tạo thể chế, dẫn dắt chiến lược, đảm bảo nguồn lực công đầu tư đúng trọng điểm và phối hợp hiệu quả giữa trung ương, địa phương, cơ sở.

Về nông (nông dân), đây sẽ là trung tâm của mọi đổi mới. Chương trình “Nông dân chuyên nghiệp – nông dân số – nông dân xanh – nông dân tử tế” sẽ gắn đào tạo nghề, kỹ năng số, thương mại điện tử, tín chỉ carbon và khởi nghiệp nông thôn. Nông dân Việt Nam hôm nay không chỉ cày sâu cuốc bẫm, mà còn là kiến tạo tương lai xanh.

Về thương (doanh nghiệp) đây là động lực mở thị trường và liên kết chuỗi giá trị. Chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, tín dụng, bảo hiểm và chứng chỉ carbon được triển khai, cùng phát triển hợp tác xã kiểu mới làm hạt nhân kết nối sản xuất, chế biến, tiêu thụ. Mục tiêu đến năm 2030: Tăng gấp đôi đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, trong đó ít nhất 30% dự án xanh, tuần hoàn, giảm phát thải.

Về trí (nhà khoa học, tri thức), theo đó, bộ sẽ mở rộng mạng lưới khuyến nông số, thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, hợp tác quốc tế để tri thức đi thẳng vào thực tiễn nông nghiệp.

Về binh (lực lượng quốc phòng, an ninh và cộng đồng) giúp bảo đảm an ninh sinh thái, an ninh lương thực và an ninh nông thôn. Bộ sẽ phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và các tổ chức chính trị - xã hội triển khai “Làng sinh thái, xã đáng sống”, gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, quốc phòng và văn hóa.

Những giải pháp này không chỉ là khẩu hiệu, mà là lộ trình hành động cụ thể, từ thực tiễn cuộc sống của nông dân đến chính sách, cơ chế và nguồn lực minh bạch. Phát triển nông nghiệp hôm nay không chỉ là nhiệm vụ kinh tế, mà còn là sứ mệnh văn hóa, nhân văn của dân tộc.

“Bộ Nông nghiệp và Môi trường khẳng định tiếng nói của nông dân sẽ được lắng nghe và chuyển thành hành động cụ thể. Mỗi chương trình, mỗi dự án sẽ hướng đến mục tiêu nông dân hạnh phúc, nông thôn đáng sống, nông nghiệp xanh”, ông Trần Đức Thắng nhấn mạnh.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng: Hành trình xanh của nông dân Việt Nam bắt đầu từ hôm nay. Mỗi hành động nhỏ sẽ tạo hiệu quả lớn; mỗi nông dân là chiến sĩ xanh; mỗi hợp tác xã là hạt nhân đổi mới; mỗi làng quê là trung tâm sáng tạo và hạnh phúc. Với sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ và tinh thần đoàn kết, trí tuệ của hàng chục triệu nông dân, Việt Nam sẽ bước vào kỷ nguyên mới của nông nghiệp xanh, thịnh vượng và nhân văn.

Nguyễn Hạnh
Bình luận

Có thể bạn quan tâm