Đề xuất bổ sung 2 quyền quan trọng cho chủ sở hữu công nghệ

Đại biểu Quốc hội đề nghị bổ sung thêm 2 quyền rất quan trọng cho chủ sở hữu công nghệ nhằm bảo vệ đầy đủ hơn quyền thương mại hóa của nhà sáng tạo.

Đưa đổi mới sáng tạo trở thành trụ cột tăng trưởng

Chiều 6/11, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Quốc hội thảo luận ở Tổ về: Dự án Luật Chuyển đổi số; Luật Công nghệ cao (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ.

Đại biểu Nguyễn Thị Lan - đoàn Hà Nội

Đại biểu Nguyễn Thị Lan - đoàn Hà Nội 

Phát biểu tại phiên họp, đại biểu Nguyễn Thị Lan - đoàn Hà Nội hoàn toàn đồng tình với sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật Chuyển giao công nghệ. Đây là một nhiệm vụ lập pháp quan trọng và rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

Sau hơn 7 năm thực thi, Luật năm 2017 đã phát huy tác dụng ở nhiều mặt, nhưng cũng đã xuất hiện không ít điểm cần được hoàn thiện để đáp ứng thực tiễn mới - khi khoa học công nghệ, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh đang trở thành động lực chính cho phát triển quốc gia.

Thực tế cho thấy, dòng chảy tri thức từ viện, trường ra doanh nghiệp vẫn chưa thực sự thông suốt. Nhiều kết quả nghiên cứu có giá trị vẫn còn nằm lại trong ngăn kéo, chưa đi được ra thị trường.

Trong khi đó, ở các nước phát triển, khoảng cách giữa nghiên cứu và sản xuất đã được thu hẹp nhờ cơ chế pháp lý rất linh hoạt, khuyến khích mạnh mẽ hoạt động thương mại hóa công nghệ.

Vì vậy, đại biểu cho rằng lần sửa đổi này không chỉ là để “sửa luật”, mà là để tạo hành lang pháp lý mở, thông thoáng và hiện đại, nhằm khơi thông dòng chảy tri thức - công nghệ, đưa đổi mới sáng tạo thực sự trở thành một trụ cột tăng trưởng.

Làm rõ quyền sở hữu, phạm vi chuyển giao công nghệ

Về điều 7 - quyền chuyển giao công nghệ, theo đại biểu, dự thảo đã có bước tiến trong việc làm rõ quyền sở hữu, quyền sử dụng và phạm vi chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, đề nghị bổ sung thêm 2 quyền rất quan trọng cho chủ sở hữu công nghệ.

Một là, quyền được tiếp tục cải tiến, phát triển và hoàn thiện công nghệ đã chuyển giao; hai là, quyền được phân phối, bán sản phẩm tạo ra từ công nghệ đó.

"Bổ sung này sẽ giúp bảo vệ đầy đủ hơn quyền thương mại hóa của nhà sáng tạo, đồng thời tạo động lực tài chính thực chất cho các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp đầu tư nghiêm túc vào R&D" - bà Lan nhấn mạnh. 

Theo bà Lan, kinh nghiệm quốc tế cho thấy điều này là vô cùng quan trọng. Đạo luật Bayh-Dole của Hoa Kỳ năm 1980 là ví dụ kinh điển. Trước đó, hàng chục nghìn sáng chế do ngân sách nhà nước tài trợ bị “đóng băng” - chỉ khoảng 5% được thương mại hóa.

Nhưng khi các trường đại học được trao quyền sở hữu sáng chế, một làn sóng đổi mới sáng tạo bùng nổ: Hàng nghìn doanh nghiệp spin-off ra đời, các trường như Stanford, MIT, Wisconsin trở thành “cái nôi” của các tập đoàn công nghệ lớn và nền kinh tế tri thức của Hoa Kỳ được khởi động từ đó.

Ở Hàn Quốc, năm 2000, nước này cũng ban hành Luật Thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu công. Các trường như KAIST, POSTECH không chỉ nghiên cứu mà còn lập quỹ đầu tư mạo hiểm riêng, trực tiếp rót vốn cho các nhóm nghiên cứu thành lập doanh nghiệp. Nhờ vậy, chỉ trong 10 năm, Hàn Quốc đã hình thành hơn 3.000 công ty spin-off từ đại học, tạo ra hàng trăm nghìn việc làm công nghệ cao.

Ở Việt Nam, chúng ta cũng đã có những tín hiệu tích cực. Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đều đã có các trung tâm chuyển giao công nghệ, nhưng vẫn còn thiếu cơ chế rõ ràng để họ được sở hữu và khai thác hợp pháp kết quả nghiên cứu.

"Luật lần này cần tháo gỡ chính điểm đó - để nhà khoa học, viện, trường được quyền và được khuyến khích làm chủ công nghệ, giống như cách mà các quốc gia đổi mới thành công đã làm" - nữ đại biểu Quốc hội đoàn Hà Nội nói. 

Về điều 35 - chính sách khuyến khích, đại biểu hoan nghênh tư duy mới của dự thảo khi phân loại ba cấp độ tiếp nhận công nghệ: “Ứng dụng”, “làm chủ”, “đổi mới” và gắn với ưu đãi thuế theo kết quả đầu ra. Đây là một bước tiến rất lớn.

Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ thực thi. Nếu không có tiêu chí rõ ràng để xác định doanh nghiệp đạt mức “làm chủ” hay “đổi mới”, thì chính sách dễ khó áp dụng, thậm chí phát sinh cơ chế “xin - cho”.

Đại biểu đề xuất cần có bộ tiêu chí cụ thể, minh bạch, ví dụ như tỷ lệ nội địa hóa, doanh thu từ sản phẩm mới, hoặc số sáng chế được thương mại hóa.

Bên cạnh ưu đãi thuế, đề nghị nghiên cứu các chính sách, công cụ mềm mà nhiều nước đã dùng thêm để thúc đẩy thương mại hóa. Chẳng hạn, mô hình “Phiếu hỗ trợ đổi mới sáng tạo” (Innovation Voucher) của Hà Lan, Anh, Singapore rất thành công: Nhà nước cấp phiếu cho doanh nghiệp nhỏ và vừa để “mua” dịch vụ nghiên cứu từ viện, trường.

"Cách làm này vừa giúp doanh nghiệp nâng trình độ công nghệ, vừa giúp các viện, trường có thêm nguồn thu từ dịch vụ R&D. Tôi nghĩ Việt Nam có thể thí điểm mô hình này thông qua Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia (NATIF) hoặc các quỹ khoa học và công nghệ địa phương" - đại biểu phân tích. 

Về điều 8, góp vốn bằng công nghệ, đại biểu chia sẻ thêm, cần rà soát lại để thống nhất quan điểm xây dựng luật để đảm bảo thống nhất là giao quyền sở hữu công nghệ cho tổ chức trực tiếp tạo ra công nghệ và giao cho họ tự quyết định giá trị công nghệ góp vốn, phương án góp vốn.

Việc phân chia kết quả từ hoạt động góp vốn nên áp dụng với tất cả các nhiệm vụ khoa học công nghệ các cấp, trừ những dự án quan trọng liên quan đến an ninh, quốc phòng thì chính phủ hay cơ quan được chính phủ giao sẽ quyết định.

Đại biểu Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh, lần sửa đổi luật này là bước ngoặt trong tư duy quản lý công nghệ - từ “quản lý việc chuyển giao” sang “tạo động lực cho đổi mới sáng tạo”.

Nếu được hoàn thiện theo hướng cởi mở, khuyến khích sáng tạo, trao quyền cho viện, trường và doanh nghiệp, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ sẽ trở thành bệ phóng cho hệ sinh thái đổi mới sáng tạo Việt Nam, giúp khoa học, công nghệ thực sự trở thành động lực chính của tăng trưởng và năng lực cạnh tranh quốc gia.

Quỳnh Nga
Bình luận