Công nghệ giúp ngành công nghiệp than hướng tới sản xuất thông minh

Ngành công nghiệp than đang ứng dụng mạnh mẽ các giải pháp công nghệ để hướng tới mô hình khai thác hiện đại, thông minh và bền vững.

Bước tiến từ cơ giới hóa đến tự động hóa

Hiện nay, ngành công nghiệp than Việt Nam đang đứng trước yêu cầu kép: vừa phải bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, vừa phải giảm áp lực môi trường và nâng cao điều kiện lao động. Trong bối cảnh đó, việc ứng dụng khoa học, công nghệ vào khai thác than được coi là con đường tất yếu, giúp nâng cao năng suất, hiệu quả và tiến tới mô hình sản xuất thông minh.

Những năm qua, nhiều doanh nghiệp khai thác than tại Việt Nam đã từng bước cơ giới hóa, tự động hóa và tin học hóa trong khai thác, không chỉ nâng cao năng suất mà còn cải thiện an toàn, tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Điển hình như tại Công ty Cổ phần Than Hà Lầm, doanh nghiệp này đã đầu tư hai lò chợ đồng bộ, công suất 600 nghìn tấn/năm và 1,2 triệu tấn/năm. Nhờ đó, sản lượng khai thác tăng gấp 3 - 5 lần so với công nghệ cũ. Hệ thống điều hành sản xuất tập trung với 24 màn hình lớn kết nối cáp quang cho phép giám sát toàn bộ hoạt động dưới mức âm 50m. 

“Thực hiện chiến lược “Mỏ xanh, sạch, hiện đại, ít người”, từ năm 2014 đến nay, công ty đã áp dụng công nghệ mới và cơ giới hóa trong khai thác than hầm lò. Tiêu biểu như việc đầu tư hai lò chợ cơ giới hóa, áp dụng máy đào lò com-bai, máy xúc, chống lò bằng vì neo… Qua đó, tăng năng suất lao động, đẩy nhanh tiến độ thi công”, ông Vũ Ngọc Thắng, Giám đốc Công ty Cổ phần Than Hà Lầm cho hay.

Trong khi đó, Công ty Than Mạo Khê lại đối mặt với điều kiện khai thác khó khăn, hàm lượng khí mê-tan ở mức siêu hạng, nguy cơ bục nước và cháy nội sinh cao.

Từ năm 2007, đơn vị đã mạnh dạn thử nghiệm lò chợ cơ giới hóa toàn bộ bằng tổ hợp giàn chống 2ANSH, thay thế dần cho cột chống gỗ và thủy lực đơn. Tuyến băng tải tự động kết nối trung tâm điều khiển qua hệ thống camera giám sát giúp tiết giảm nhân công và tăng an toàn. Hệ thống quan trắc khí mỏ hoạt động 24/24 giờ sẽ tự động ngắt điện khi nồng độ mê-tan vượt mức cho phép, bảo đảm tuyệt đối an toàn.

Công nhân sử dụng máy siêu âm thành lỗ khoan thăm dò tại một công trường khai thác của TKV. Ảnh: TKV

Công nhân sử dụng máy siêu âm thành lỗ khoan thăm dò tại một công trường khai thác của TKV. Ảnh: TKV

Không chỉ dừng ở đó, nhiều đơn vị hầm lò khác cũng áp dụng đồng bộ các giải pháp mới. Công ty Than Thống Nhất từ năm 2007 đã đưa vào giá chống thủy lực ZH 1800/2500 và ZH 1600/2400, phù hợp vỉa dày, an toàn và năng suất cao. Năm 2019, công ty đầu tư trạm quạt gió chính VO-22, năm 2020 tiếp tục triển khai hệ thống giám sát, điều khiển tập trung trị giá 35 tỷ đồng, giúp giảm hơn 100 lao động vận hành thiết bị.

Theo thống kê, tỷ lệ cơ giới hóa trong khai thác hầm lò đã tăng từ 10% lên 80% chỉ trong vài năm qua. Hàng loạt giải pháp công nghệ tiên tiến được đưa vào sử dụng như giàn chống mềm ZRY, khấu gương bằng khoan nổ mìn thay thế đào lò thủ công, máy com-bai cơ giới hóa đào lò, hay chống lò bằng vì neo. Đây chính là những nền tảng giúp ngành công nghiệp than tiến gần hơn tới mục tiêu sản xuất thông minh.

Hướng tới mô hình mỏ xanh, sạch, hiện đại

Ứng dụng khoa học, công nghệ trong ngành công nghiệp than không chỉ tập trung vào khai thác mà còn mở rộng sang mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý, cải thiện môi trường và nâng cao đời sống thợ mỏ.

Điển hình như việc Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam đã đầu tư hạ tầng truyền thông số tốc độ cao, xây dựng trung tâm điều hành giám sát tập trung, triển khai phần mềm quản lý sản xuất, hóa đơn điện tử, giám sát lưu chuyển than, đồng thời dự báo sức khỏe và an toàn cho thợ mỏ bằng dữ liệu số.

Mỗi năm, tập đoàn dành gần 1.000 tỷ đồng cho công tác bảo vệ môi trường: Phủ xanh hơn 1.000 ha bãi thải, lắp đặt 38 hệ thống quan trắc môi trường tự động, xây dựng 45 trạm xử lý nước thải mỏ với công suất hơn 120 triệu m³/năm. Toàn bộ nước thải hầm lò đều được xử lý đạt chuẩn trước khi xả ra môi trường. Đây là bước đi quan trọng để ngành công nghiệp than hòa nhập với xu hướng tăng trưởng xanh. Song song với sản xuất, TKV cũng chi khoảng 45 - 50 tỷ đồng/năm cho nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ. 

Theo ông Vũ Anh Tuấn, Tổng giám đốc TKV, việc ứng dụng công nghệ hiện đại trong khai thác than và đào lò là nhiệm vụ cấp bách, nhằm tăng năng suất, cải thiện an toàn và nâng cao hiệu quả sản xuất. Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; kiên trì thực hiện chiến lược “3 hóa”: Cơ giới hóa - Tự động hóa -Tin học hóa, tiến tới xây dựng mỏ thông minh, mỏ hiện đại, giảm thiểu lao động nặng nhọc, tăng cường an toàn và hiệu quả sản xuất, kinh doanh. 

Thời gian tới, TKV sẽ yêu cầu các công ty thành viên mạnh dạn, quyết liệt hơn trong đầu tư cơ giới hóa, tự động hóa, đồng thời đánh giá kỹ điều kiện địa chất từng mỏ để lựa chọn công nghệ phù hợp, xây dựng mô hình điểm làm cơ sở nhân rộng trong toàn ngành.

Đặc biệt, định hướng lâu dài là xây dựng các mỏ than thông minh, trong đó mọi khâu từ khảo sát, thiết kế, khai thác, vận tải đến quản lý tiêu thụ đều được số hóa và kết nối. Khi công nghệ dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI) và Internet vạn vật (IoT) được áp dụng đồng bộ, ngành than Việt Nam sẽ không chỉ dừng lại ở hiện đại hóa, mà còn tiến tới một mô hình quản trị thông minh, thân thiện môi trường và có sức cạnh tranh quốc tế.

Ứng dụng khoa học, công nghệ đã đưa ngành công nghiệp than vượt qua cách làm thủ công, hướng tới mô hình sản xuất xanh, sạch và thông minh, vừa bảo đảm an ninh năng lượng, vừa đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam.

Phong Lâm
Bình luận

Có thể bạn quan tâm