Chưa đến 5% hợp tác xã trực tiếp tham gia xuất khẩu

Gần 65% hợp tác xã có sản phẩm đạt chứng nhận chất lượng như VietGAP hoặc GlobalGAP, tuy nhiên, chưa đến 5% tham gia trực tiếp vào xuất khẩu.

Con số được đưa ra tại Hội thảo tham vấn Kết quả xây dựng Bộ chỉ số Môi trường kinh doanh cấp tỉnh đối với kinh tế tập thể, hợp tác xã (PCGI) trong lĩnh vực nông nghiệp do Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Viện Chiến lược và Chính sách Phát triển nông nghiệp nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức sáng 27/11.

PCGI, công cụ thúc đẩy phát triển bền vững cho hợp tác xã nông nghiệp

Nghị quyết số 106/NQ-CP của Chính phủ về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã (HTX) nông nghiệp trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới đã giao cho Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhiệm vụ xây dựng bộ chỉ số và cơ chế đánh giá, xếp hạng “Môi trường kinh doanh cấp tỉnh đối với kinh tế tập thể, hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp”.

Hội thảo tham vấn Kết quả xây dựng Bộ chỉ số Môi trường kinh doanh cấp tỉnh đối với kinh tế tập thể, hợp tác xã. Ảnh: N.H

Hội thảo tham vấn Kết quả xây dựng Bộ chỉ số Môi trường kinh doanh cấp tỉnh đối với kinh tế tập thể, hợp tác xã. Ảnh: N.H

Đây là một nhiệm vụ chiến lược, mở ra cách tiếp cận mới: Đo lường chất lượng điều hành của địa phương đối với hệ sinh thái kinh tế tập thể - khu vực đặc biệt quan trọng với nông dân và nông thôn.

Theo ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, môi trường kinh doanh thuận lợi là thước đo mức độ quan tâm của chính quyền địa phương đối với HTX. Mức độ quan tâm thể hiện qua việc bố trí nguồn lực, đồng hành cùng HTX, minh bạch chính sách, chất lượng hạ tầng, dịch vụ công, kết nối với doanh nghiệp và thị trường, và thái độ hỗ trợ khi HTX gặp khó khăn.

Môi trường kinh doanh tốt sẽ giúp HTX phát triển bền vững, nâng cao thu nhập cho nông dân, đồng thời tạo điều kiện để nông nghiệp chuyển đổi xanh và hội nhập sâu rộng. Ngược lại, nếu còn nhiều rào cản, HTX khó phát triển dù có chính sách hỗ trợ tốt. Do đó, việc đánh giá, công bố và xếp hạng hằng năm sẽ tạo áp lực cải cách tích cực cho các địa phương, tương tự như chỉ số PCI đối với doanh nghiệp.

Bộ chỉ số được hình thành dựa trên nghiên cứu khoa học và thí điểm tại 7 tỉnh đại diện cho bảy vùng sinh thái: Sơn La, Hưng Yên, Nghệ An, Bình Định (cũ), Lâm Đồng, Đồng Nai và Đồng Tháp. Bộ chỉ số gồm 9 hợp phần, 48 chỉ tiêu, phản ánh đa dạng mô hình tổ chức sản xuất, điều kiện kinh tế - xã hội và mức độ phát triển của HTX.

Tại hội thảo tham vấn, các chuyên gia và cơ quan quản lý tập trung thảo luận ba nhóm nội dung chính. Thứ nhất, rà soát cấu trúc bộ chỉ số nhằm đảm bảo các chỉ tiêu phản ánh đúng đặc thù HTX, xem xét bổ sung chỉ tiêu liên kết chuỗi, chuyển đổi số, phát thải, phát triển vùng nguyên liệu đạt chuẩn.

Thứ hai, phương pháp đo lường và xác thực dữ liệu nhằm đảm bảo tính khách quan, minh bạch, giảm gánh nặng báo cáo, đủ tin cậy để Chính phủ sử dụng và giúp địa phương nhận diện điểm nghẽn.

Thứ ba, lộ trình áp dụng và cơ chế công bố kết quả nhằm xác định cách thức xếp hạng, công bố để khuyến khích cải cách, đồng thời đảm bảo tính khả thi khi tích hợp với hệ thống đánh giá hiện hành của ngành nông nghiệp.

Tạo ra một “tấm gương phản chiếu chính sách”

ThS. Tạ Thu Trang, Trung tâm Thông tin và Dịch vụ nông nghiệp và môi trường cho hay, qua đánh giá thí điểm tại 7 tỉnh đại diện cho các vùng sinh thái, bộ chỉ số môi trường kinh doanh cấp tỉnh cho hợp tác xã nông nghiệp đã được tinh gọn, điều chỉnh chỉ tiêu và hướng dẫn kỹ thuật, phản ánh sát thực tế, đồng thời làm rõ cơ sở dữ liệu và khả năng áp dụng trên toàn quốc.

Kết quả thí điểm bộ chỉ số môi trường kinh doanh cấp tỉnh đối với hợp tác xã nông nghiệp tại bảy tỉnh cho thấy những xu hướng đáng chú ý. Các tỉnh như Bình Định (cũ), Đồng Tháp và Nghệ An ghi nhận chỉ số tương đối cao, nhờ chính sách hỗ trợ tích cực và bộ máy quản lý ổn định, cùng sự đồng hành của liên minh hợp tác xã. Những địa phương miền núi hoặc vùng sâu, như Sơn La, vẫn gặp khó khăn trong tiếp cận dịch vụ công, tín dụng và hạ tầng phục vụ sản xuất.

Khảo sát cũng cho thấy, đặc điểm phổ biến của các hợp tác xã nông nghiệp hiện nay: Gần 65% có sản phẩm đạt chứng nhận chất lượng như VietGAP hoặc GlobalGAP; gần 94% tổ chức đại hội thành viên định kỳ và công khai tài chính. Tuy nhiên, chưa đến 5% tham gia trực tiếp vào xuất khẩu.

Những con số này phản ánh thực trạng hợp tác xã còn quy mô nhỏ, năng lực tổ chức hạn chế, nhưng đang ngày càng chủ động hơn trong quản trị, đổi mới và liên kết giá trị, mở ra cơ hội phát triển bền vững cho kinh tế tập thể tại các địa phương.

Quá trình triển khai thí điểm tại bảy tỉnh đại diện cho 7 vùng sinh thái giúp kiểm chứng tính khả thi, sự phù hợp và nhận diện khác biệt môi trường kinh doanh HTX giữa các địa phương. Các khảo sát bước đầu cũng kiểm chứng tính logic, độ ổn định và khả năng phản ánh thực tiễn của bộ chỉ số, dù chưa dùng để đánh giá, xếp hạng chính thức.

Tuy nhiên, quá trình này gặp nhiều thách thức, như chuẩn hóa dữ liệu hành chính chưa đồng bộ, khó tiếp cận HTX ở vùng sâu, vùng xa và thiếu đồng bộ giữa các nguồn thông tin. Thời điểm triển khai giữa năm 2025 trùng với sát nhập đơn vị hành chính, gây khó khăn trong thu thập dữ liệu đầu mối. Một số chỉ tiêu chưa phù hợp, khó kiểm chứng, phiếu khảo sát còn dài và phức tạp, đặc biệt khi tổng hợp thủ công tại địa phương.

Để khắc phục, nhóm nghiên cứu đã phối hợp chuyên gia điều chỉnh bộ chỉ số, tinh gọn nội dung, làm rõ đơn vị dữ liệu, bổ sung đánh giá định tính từ chính HTX, tái cấu trúc bảng hỏi và quy trình khảo sát. Các chỉ tiêu không thể thu thập đã được loại bỏ, trọng số giữa các nhóm chỉ số được cân đối để phản ánh đúng khả năng hấp thụ chính sách và năng lực nội tại của HTX.

Trọng số này sẽ được điều chỉnh định kỳ hai năm một lần, dựa trên thực tiễn và tầm quan trọng của từng chỉ số. Hướng dẫn kỹ thuật thu thập, xử lý dữ liệu cũng được chi tiết hóa, đồng thời bổ sung các chỉ tiêu phản ánh xu hướng mới, giúp bộ chỉ số trở thành công cụ quản trị hiệu quả, phản ánh sát thực tế và khả năng áp dụng trên phạm vi toàn quốc.

Khi được hoàn thiện và triển khai bài bản, bộ chỉ số sẽ trở thành công cụ mạnh mẽ thúc đẩy phong trào thi đua cải thiện môi trường kinh doanh cho HTX, tạo chuyển biến thực chất trong phát triển kinh tế tập thể, nâng cao năng lực cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam.

Theo ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, việc xây dựng bộ chỉ số này không phải đánh giá cho có, mà để tạo ra một “tấm gương phản chiếu chính sách”, nơi mỗi địa phương có thể nhìn thấy rõ mình đang ở đâu, mạnh, yếu thế nào, cần cải thiện gì để HTX thật sự được hỗ trợ, được bảo vệ và được trao cơ hội phát triển.

Nguyễn Hạnh
Bình luận