
Chính sách phát triển công nghiệp ô tô: Đúng hướng nhưng thiếu lực để tăng tỷ lệ nội địa hóa
Thông tin được đưa ra tại tọa đàm "Nội địa hóa ngành ô tô với nền kinh tế độc lập, tự chủ", do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức sáng 18/9.
Ngành công nghiệp ô tô và vai trò đối với phát triển kinh tế Việt Nam
Chia sẻ tại Tọa đàm, GS.TS. Hoàng Văn Cường - Đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo sư Nhà nước cho hay, lịch sử thương mại quốc tế cho thấy nhiều cuộc cạnh tranh, thậm chí “chiến tranh thương mại”, đều bắt nguồn từ ngành ô tô và kéo dài cho đến ngày nay.

Toàn cảnh Tọa đàm. Ảnh: VGP/Minh Khôi
Dù không phải quốc gia nào cũng coi ô tô là ngành trụ cột, nhưng đây luôn là tâm điểm cạnh tranh toàn cầu. Nguyên nhân là bởi ô tô gắn trực tiếp với đời sống người dân, nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng, khó có xu hướng giảm. Quan trọng hơn, ô tô có tính lan tỏa lớn, thúc đẩy nhiều ngành công nghiệp khác như công nghệ, linh kiện, dịch vụ phụ trợ.
Vì vậy, hầu hết các nước đều muốn phát triển ngành này, vừa để đáp ứng nhu cầu trong nước, vừa khẳng định thương hiệu quốc gia. Với Việt Nam, phát triển công nghiệp ô tô theo hướng nội địa hóa là xu thế tất yếu, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Nhu cầu ô tô tại Việt Nam hiện rất lớn, khi dân số đã vượt 100 triệu người, tầng lớp trung lưu đang gia tăng nhanh. So sánh với Thái Lan với dân số 70 triệu người nhưng tiêu thụ 1 triệu xe/năm và sản xuất tới 2 triệu xe, có thể thấy tiềm năng thị trường Việt Nam còn rộng mở.
Đồng quan điểm, TS. Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương, cho biết, ngành công nghiệp ô tô tác động trực tiếp đến nhiều mặt đời sống kinh tế - xã hội. Năm 2024, tổng số ô tô tiêu thụ tại Việt Nam (gồm cả nhập khẩu và sản xuất trong nước) đạt khoảng 580.000 chiếc. Dự báo, đến giai đoạn 2030–2035, con số này có thể đạt 900.000 - 1 triệu chiếc/năm, tốc độ tăng trưởng 12-15%/năm. Đây là tiềm năng rất lớn để ngành bứt phá.
Sau hơn 30 năm phát triển, Việt Nam đã thu hút đầu tư, hình thành hệ sinh thái công nghiệp ô tô với những kết quả đáng ghi nhận: Có thương hiệu ô tô mang dấu ấn Việt Nam, tạo công ăn việc làm trực tiếp cho hàng trăm nghìn lao động và thúc đẩy nhiều ngành phụ trợ. Đơn cử, ngành cao su phát triển mạnh nhờ nhu cầu sản xuất lốp xe, linh kiện.
Tuy nhiên, thách thức lớn hiện nay là tỷ lệ nội địa hóa còn thấp. Với xe con dưới 9 chỗ, tỷ lệ mới đạt khoảng 10% thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia. Một số dòng xe tải, xe buýt có tỷ lệ nội địa hóa cao hơn (30- 40%), tiệm cận mục tiêu mà Nhà nước đặt ra cho giai đoạn 2020, song nhìn chung vẫn chưa đáp ứng kỳ vọng.
Theo TS. Nguyễn Văn Hội, công nghiệp ô tô không chỉ phục vụ nhu cầu dân sinh mà còn gắn với quốc phòng, du lịch, vận tải và nhiều lĩnh vực khác. Thị trường sản phẩm cũng rất đa dạng: Từ xe con, xe khách, xe buýt, xe chuyên dụng, xe công trình đến xe quân sự. Vì vậy, phát triển công nghiệp ô tô, nhất là nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, phải được coi là định hướng trọng điểm trong chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam giai đoạn tới.
Cần chính sách mạnh để nâng tỷ lệ nội địa hóa
Ngành công nghiệp ô tô có vai trò đặc biệt quan trọng vì gắn với nhiều lĩnh vực, trong đó có công nghiệp phụ trợ. Khi ô tô phát triển, các ngành liên quan cũng phát triển theo, tạo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế – xã hội. Nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành chính sách nội địa hóa, với mục tiêu từng bước hình thành ngành công nghiệp ô tô hoàn chỉnh.
Với xe máy, tỷ lệ nội địa hóa đã đạt mức cao. Nhưng với ô tô, đây vẫn là bài toán lớn. Chính phủ đã áp dụng nhiều ưu đãi về đất đai, vốn, thuế, tài chính. Gần đây Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp cũng bổ sung ưu đãi cho công nghiệp hỗ trợ và công nghệ cao. Tuy nhiên, thực tế kết quả chưa như kỳ vọng.
Ngành ô tô quan trọng trên nhiều phương diện: Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước (hơn 100 triệu dân, xu hướng tất yếu chuyển từ xe máy sang ô tô), tạo việc làm cho hàng trăm nghìn lao động và là nền tảng cho nhiều ngành khác như luyện kim, cơ khí, dịch vụ bảo dưỡng, vận tải, du lịch, thậm chí cả quốc phòng. Chính vì vậy, phát triển công nghiệp ô tô, đặc biệt là nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, phải là ưu tiên trong chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam.
Theo GS.TS. Hoàng Văn Cường, chính sách phát triển ngành ô tô của Việt Nam thể hiện rõ định hướng khuyến khích sản xuất trong nước đó là thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc ở mức rất cao, trong khi linh kiện nhập khẩu lại được ưu đãi. Dù vậy, tỷ lệ nội địa hóa hiện mới đạt khoảng 10% với xe con, thấp hơn nhiều so với chuẩn quốc tế (tối thiểu 40% để được công nhận xuất xứ). Một số dòng xe thương mại như xe tải, xe buýt có tỷ lệ nội địa hóa cao hơn (40-60%), song số lượng doanh nghiệp tham gia còn hạn chế.
Điều này cho thấy chính sách nội địa hóa đúng về định hướng, nhưng công cụ thực thi chưa đủ mạnh. Hiện chúng ta chủ yếu dựa vào ưu đãi thuế, trong khi thiếu cơ chế ràng buộc về lộ trình, tỷ lệ nội địa hóa tối thiểu theo từng giai đoạn. Bên cạnh đó, Việt Nam chưa gắn thu hút FDI với yêu cầu chuyển giao công nghệ và sự tham gia của doanh nghiệp trong nước. Trong khi đó, kinh nghiệm quốc tế như trường hợp Trung Quốc cho thấy việc gắn chặt FDI với chuyển giao công nghệ là yếu tố quyết định để xây dựng ngành ô tô tự chủ.
Vì vậy, để phát triển bền vững ngành công nghiệp ô tô, ngoài chính sách thuế, cần có giải pháp đồng bộ hơn: Bắt buộc lộ trình nội địa hóa, thúc đẩy liên kết chuỗi sản xuất trong nước, và đặt yêu cầu chuyển giao công nghệ làm điều kiện tiên quyết. Chỉ khi doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu vào sản xuất linh kiện, chủ động tiếp nhận và làm chủ công nghệ, ngành ô tô mới đạt mục tiêu nội địa hóa và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Mỗi năm, ngành ô tô chi gần 10 tỷ USD cho việc nhập khẩu linh kiện; tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu còn yếu, manh nha… Điều này dẫn tới mất cân bằng cán cân thương mại, thiếu hụt giá trị gia tăng trong nước, không tạo được chuỗi cung ứng nội địa và nhất là không tích luỹ được năng lực sản xuất công nghệ cao, ngoại tệ bị chảy ra nước ngoài…