Chính sách mới mở đường cho công nghệ số bứt phá

Những chính sách mới được ban hành đã tạo nền tảng cho lĩnh vực công nghệ số phát triển, góp phần chung vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.

Công nghệ số của Việt Nam ngày càng lớn mạnh

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ số đã và đang khẳng định vai trò động lực chủ chốt, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Số liệu ước tính từ Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho thấy, trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ mới hiện nay dự kiến sẽ đóng góp 19,9 nghìn tỷ USD cho nền kinh tế toàn cầu vào năm 2030. AI có thể chuyển đổi các nền kinh tế mới với tiềm năng nâng cao hiệu quả và năng suất lao động, nâng cao hiệu quả dịch vụ công, phát triển kỹ năng của lực lượng lao động, tăng khả năng cạnh tranh kinh tế.

Không nằm ngoài xu thế đó, lĩnh vực công nghệ số của Việt Nam cũng có những bước phát triển mạnh mẽ, đóng góp tích cực cho nền kinh tế đất nước. Tổng doanh thu công nghiệp công nghệ số của Việt Nam năm 2024 ước đạt 152 tỷ USD, tăng 35,7% so với năm 2019. Hệ sinh thái khởi nghiệp công nghệ số cũng phát triển ngày càng lớn mạnh với gần 74.000 doanh nghiệp. Hệ sinh thái sản phẩm và dịch vụ đa dạng, từ phần cứng, điện tử, đến phần mềm và các công nghệ tiên tiến như AI, dữ liệu lớn, Internet vạn vật...

Lực lượng lao động đạt hơn 1,67 triệu lao động, tăng hơn 50% so với năm 2019. Tính đến hết năm 2023, đã có gần 1.900 doanh nghiệp công nghệ số vươn ra thị trường quốc tế, doanh thu 11,5 tỷ USD, tăng 53% so với năm 2022.

Những con số trên cho thấy, công nghệ số đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng, không chỉ giúp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng cơ hội hợp tác quốc tế, góp phần tích cực vào việc xây dựng nền kinh tế số toàn diện, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, Việt Nam vẫn còn có những điểm yếu lớn như trình độ công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung còn thấp, chỉ tham gia ở mức rất khiêm tốn trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Năng lực nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp vẫn còn phụ thuộc khá nhiều vào nước ngoài, hạn chế khả năng tự chủ công nghệ của Việt Nam. Việc thu hút nhân tài công nghệ cao chưa đủ mạnh, dẫn đến thiếu hụt nguồn lực chất lượng, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng đổi mới sáng tạo.

Việc phát triển công nghệ số, hạ tầng công nghệ số chưa đồng đều giữa các vùng, miền, tạo ra khoảng cách lớn trong tiếp cận công nghệ, ảnh hưởng đến khả năng kết nối toàn quốc và sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp công nghệ số.

Công nghệ số của Việt Nam thời gian qua đã có những bước tăng trưởng mạnh mẽ. Ảnh minh hoạ

Công nghệ số của Việt Nam thời gian qua đã có những bước tăng trưởng mạnh mẽ. Ảnh minh hoạ

Chính sách mới tạo đà cho công nghệ số bứt phá

Theo ông Nguyễn Anh Tuấn, Trưởng phòng Quản lý Chất lượng (Cục Công nghiệp Công nghệ thông tin), thời gian qua, Chính phủ, các bộ ngành, trong đó có Bộ Khoa học và Công nghệ đã nỗ lực xây dựng hệ thống chính sách cùng nhiều ưu đãi để thúc đẩy phát triển công nghệ số.

Trên nền tảng ưu tiên phát triển công nghệ số, Bộ Khoa học và Công nghệ đã có Thông tư 31/2025/TT-BKHCN ban hành Danh mục sản phẩm và dịch vụ công nghệ số trọng điểm. Danh mục gồm 10 nhóm lớn, trong đó có trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, điện toán lượng tử, dữ liệu lớn, chuỗi khối và đặc biệt là các dòng chip bán dẫn như chip chuyên dụng, chip AI, chip IoT. Danh mục còn mở rộng ở chiều sâu vật tư – thiết bị với 14 nhóm nguyên liệu và vật liệu bán dẫn, cùng 18 nhóm thiết bị – máy móc – công cụ phục vụ toàn bộ chuỗi công nghiệp bán dẫn.

Thông tư 32/2025/TT-BKHCN xác định danh mục nguyên liệu, vật liệu bán dẫn cũng như thiết bị, máy móc, công cụ khuyến khích đầu tư phát triển. Các dự án trong lĩnh vực này được xếp vào nhóm ngành nghề đặc biệt ưu đãi đầu tư, đồng thời có thể được hưởng mức hỗ trợ trực tiếp chi phí đầu tư của Nhà nước và ưu tiên trong thủ tục hải quan. Những ưu đãi này, theo nội dung tài liệu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư chiều sâu vào công nghệ bán dẫn – lĩnh vực được xem là xương sống của ngành công nghiệp số.

Trong khi đó, Thông tư 33/2025/TT-BKHCN tập trung vào cơ chế ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho các dự án sản xuất thiết bị điện tử. Doanh nghiệp chỉ cần đáp ứng một trong các tiêu chí như sử dụng chip bán dẫn được thiết kế, sản xuất, đóng gói hoặc kiểm thử tại Việt Nam; có bộ phận R&D đạt yêu cầu về nhân lực và chi tiêu cho nghiên cứu – đổi mới sáng tạo; sở hữu thiết kế sản phẩm; hoặc tham gia chuỗi cung ứng với tỷ lệ doanh nghiệp Việt Nam từ 30% và chuyển giao công nghệ cho ít nhất một tổ chức trong nước. Đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, khi đáp ứng điều kiện, doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp bốn năm đầu và giảm 50% trong chín năm tiếp theo; riêng các dự án quy mô trên 6.000 tỷ đồng có thể được Thủ tướng xem xét kéo dài thời gian ưu đãi tới mức tối đa 1,5 lần khung này.

Chính sách đáng chú ý tiếp theo là Thông tư 34/2025/TT-BKHCN đưa ra tiêu chí để sản phẩm – dịch vụ công nghệ số được hưởng ưu đãi trong lựa chọn nhà thầu khi sử dụng ngân sách nhà nước. Các sản phẩm phần cứng phải có thiết kế và nhãn hiệu thuộc sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân người Việt Nam; sản phẩm phần mềm phải do tổ chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân Việt Nam thiết kế, phát triển hoặc phát triển trên nền tảng mã nguồn mở do chủ thể Việt Nam sở hữu. Đây là cơ chế nhằm thúc đẩy sản phẩm “Make in Vietnam” tham gia mạnh mẽ hơn vào hệ thống mua sắm công.

Bên cạnh các quy định mới liên quan tạo điều kiện hỗ trợ ưu đãi cho doanh nghiệp, Thông tư 26/2025/TT-BKHCN đã điều chỉnh hoạt động nhập khẩu sản phẩm công nghệ đã qua sử dụng thuộc danh mục cấm nhập khẩu. Dù siết điều kiện quản lý, Thông tư lại mở ra các trường hợp đặc biệt cho phép nhập khẩu, như khi doanh nghiệp cần di chuyển phương tiện sản xuất trong nội bộ tổ chức, sử dụng thiết bị để điều khiển và vận hành dây chuyền, hay phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất phần mềm, gia công quy trình kinh doanh bằng CNTT. Những trường hợp như sản phẩm chuyên dùng, thiết bị tái nhập để sửa chữa hoặc linh kiện tân trang không còn được sản xuất trong nước cũng thuộc diện được phép nhập khẩu.

Trong khi đó, Thông tư 30/2025/TT-BKHCN, quy định tiêu chí đối với dây chuyền công nghệ, thiết bị và máy móc đã qua sử dụng được phép nhập khẩu để phục vụ trực tiếp sản xuất, đóng gói, kiểm thử sản phẩm chip bán dẫn, cũng như hoạt động đào tạo, nghiên cứu và phát triển sản phẩm, dịch vụ công nghệ số. Theo quy định, các dây chuyền công nghệ nhập khẩu phải không thuộc danh mục lạc hậu, chất lượng kém hoặc gây ô nhiễm do nước xuất khẩu công bố, đồng thời đáp ứng tiêu chuẩn về an toàn, tiết kiệm năng lượng theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, tiêu chuẩn quốc gia hoặc tiêu chuẩn của G7 và Hàn Quốc. Công suất hoặc hiệu suất còn lại của dây chuyền phải đạt từ 85% so với thiết kế; mức tiêu hao nguyên liệu, vật liệu và năng lượng không vượt quá 15%. Đối với thiết bị, máy móc và công cụ, tuổi thiết bị không được vượt quá 20 năm.

"Các chính sách mới ban hành thời gian qua đã góp phần hình thành hành lang pháp lý tương đối đầy đủ cho sự phát triển của công nghiệp công nghệ số tại Việt Nam. Từ định hướng ưu tiên, danh mục sản phẩm, dịch vụ trọng điểm cho tới các cơ chế ưu đãi về đầu tư, thuế và mua sắm công, chính sách đang từng bước đi vào chiều sâu, sát với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp", đại diện Cục Công nghiệp Công nghệ thông tin cho hay.

Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, các chính sách đang tạo ra môi trường thuận lợi hơn để doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư dài hạn, hình thành hệ sinh thái công nghệ số bền vững, từng bước đưa công nghệ số trở thành động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn tới.

Phong Lâm
Bình luận

Có thể bạn quan tâm