Cần thiết ban hành cơ chế gỡ vướng mắc trong thi hành Luật Đất đai

Theo đại biểu, việc ban hành Nghị quyết quy định về một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai là vô cùng cần thiết.

Đảm bảo sự công bằng trong thu hồi đất

Chiều 1/12, tiếp tục Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai.

Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga - đoàn Hải Phòng

Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga - đoàn Hải Phòng

Phát biểu tại phiên họp, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga - đoàn Hải Phòng tán thành với nội dung tờ trình, dự thảo Nghị quyết và báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội. 

Theo đại biểu, việc xây dựng và ban hành Nghị quyết quy định về một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai là vô cùng cần thiết. Bởi, sau khi Luật Đất đai năm 2024 có hiệu lực, trong quá trình thi hành Luật, nhiều điểm nghẽn mới phát sinh trong công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, xác định giá đất, giao đất - cho thuê đất, khiến nhiều dự án đầu tư công và đầu tư tư nhân bị đình trệ.

Nhiều địa phương báo cáo lúng túng do chưa có cơ chế thống nhất để xử lý các tình huống chuyển tiếp, chưa có hướng dẫn cụ thể đối với các vướng mắc trong tính tiền bồi thường, triển khai tái định cư, hay trong việc xác định giá đất theo bảng giá đất và hệ số điều chỉnh. Vì vậy, đặt ra yêu cầu phải ban hành ngay những quy định nhằm tháo gỡ và đảm bảo sự thông suốt, thống nhất trong tổ chức thi hành luật.

Tuy nhiên, khi ban hành Nghị quyết này, cần đặc biệt lưu ý rà soát từng nội dung, đánh giá tác động kỹ lưỡng, dự liệu các tình huống phát sinh trên thực tế, mỗi quy định đưa ra phải rõ ràng, khả thi, dễ áp dụng và thực sự giải quyết được vấn đề đang tồn tại, để khi Nghị quyết được triển khai thực hiện có thể khơi thông các điểm nghẽn, tránh để xảy ra tình trạng quy định với mục tiêu tháo gỡ khó khăn trên văn bản nhưng thực tế lại tạo vướng mắc trong thực thi, dẫn tới yêu cầu phải sửa đổi quy định pháp luật nhiều lần trong thời gian ngắn về cùng một vấn đề.

Về quy định thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, nữ đại biểu đoàn Hải Phòng cho rằng, tại khoản 7 điều 3 của dự thảo Nghị quyết quy định 2 phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất để thực hiện dự án thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất đã hết thời hạn phải hoàn thành việc thoả thuận hoặc hết thời gian gia hạn phải hoàn thành việc thỏa thuận mà đã thỏa thuận được trên 75% diện tích đất và trên 75% số lượng người sử dụng đất.

Đề xuất lựa chọn phương án 2, đại biểu phân tích, phương án 1 của dự thảo tuy có ưu điểm đơn giản về thủ tục và giản bớt chi phí cho nhà đầu tư, nhưng lại tạo ra sự chênh lệch lớn giữa các hộ dân trong cùng một khu vực đất thu hồi. Căn cứ theo Điều 78, 79 Luật Đất đai 2024, giá thu hồi đất được xác định dựa trên bảng giá đất do Nhà nước công  bố tại thời điểm thu hồi đất, làm cơ sở để tính bồi thường và hỗ trợ.

Do vậy, nếu 75% diện tích đất thu hồi trước đó theo giá thỏa thuận (thông thường là theo giá thị trường), 25% diện tích đất thu hồi sau theo bảng giá đất do nhà nước công bố (thường là sẽ thấp hơn, thậm chí thấp hơn nhiều so với giá thị trường) thì sẽ có sự so sánh về lợi ích, quyền lợi giữa các hộ dân có đất bị thu hồi, không tạo sự đồng thuận và đặc biệt dễ phát sinh khiếu kiện, dẫn tới chậm tiến độ giải phóng mặt bằng.

Mặt khác, đây cũng có thể trở thành quy định để nhà đầu tư lợi dụng trục lợi, sau khi đã thu hồi được 75% diện tích đất, 25% diện tích còn lại sẽ cố tình thỏa thuận chậm để được áp dụng thu hồi theo bảng giá đất của nhà nước nhằm tiết kiệm chi phí.

Đối với phương án 2, đây là phương án có sự hài hòa hơn giữa lợi ích của nhà nước, người có đất bị thu hồi và chủ đầu tư, đồng thời đảm bảo sự công bằng trong thu hồi đất giữa những hộ dân trong cùng khu vực, bảo đảm người dân thuộc phần diện tích còn lại được hưởng mức bồi thường không thấp hơn mặt bằng giá trung bình đã thỏa thuận với các hộ dân đã hoàn thành việc thu hồi đất trước đó.

"Điều này không chỉ bảo vệ quyền lợi chính đáng của người bị thu hồi đất mà còn giảm thiểu nguy cơ phát sinh tranh chấp, khiếu kiện trong quá trình thu hồi đất, tránh được việc lợi dụng chính sách để trục lợi của chủ đầu tư" - đại biểu nhấn mạnh. 

Quy định rõ hơn về việc lấy ý kiến của người dân

Đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương - Khánh Hoà nhận xét, tại khoản 7 Điều 3 quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 3, dự thảo luật đưa ra 2 phương án, trong đó phương án 2 có nội dung quy định bao gồm cả phương án 1 và bổ sung quy định "Trường hợp tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ được nhận theo phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư tính trên một đơn vị diện tích đất thấp hơn trung bình của giá đất đã thỏa thuận thì người có đất thu hồi được nhận thêm số tiền còn thiếu so với mức trung bình đó. Nhà đầu tư phải trả số tiền chênh lệch giữa số tiền tính theo mức trung bình của giá đất đã thỏa thuận và số tiền bồi thường, hỗ trợ trong phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư".

Đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương - đoàn Khánh Hoà

Đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương - đoàn Khánh Hoà

Theo đại biểu, cần quy định chọn phương án 2, vì phương án 2 có lợi hơn cho người có đất bị thu hồi, khắc phục được phần nào hạn chế về áp giá đền bù thường thấp hơn so với giá thị trường, gây thiệt thòi cho người có đất bị thu hồi. Quy định này cũng xác định rõ trách nhiệm tài chính của nhà đầu tư và việc quy định minh bạch sẽ thuận lợi hơn trong triển khai thực hiện.

Tại khoản 9 điều 3 quy định về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, đại biểu cho hay, điểm b quy định thời gian tổ chức đối thoại trong trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là 30 ngày kể từ ngày tổ chức lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

"Để đảm bảo được quyền tham gia ý kiến của người có đất bị thu hồi, tránh việc áp đặt thiếu minh bạch và nhằm tăng sự đồng thuận của người có đất bị thu hồi và cộng đồng dân cư, góp phần giảm thiểu việc khiếu nại, khiếu kiện, đề nghị cần nghiên cứu bổ sung quy định rõ hơn về việc lấy ý kiến của người dân" - bà Hương nói. 

Do đó, đề nghị cần rà soát, bổ sung quy định tại khoản này nội dung cơ quan có thẩm quyền phải tổ chức lấy ý kiến của người dân về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; trường hợp ít hơn 75% người dân đồng ý thì cơ quan có thẩm quyền phải tổ chức đối thoại, điều chỉnh phương án bồi thường và niêm yết công khai lại bảo đảm theo quy định. Kết quả lấy ý kiến phải được ghi nhận vào hồ sơ và xem xét khi phê duyệt phương án bồi thường.

Tại khoản 12 Điều 3 quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định biện pháp hỗ trợ khác để bảo đảm có chỗ ở ổn định đời sống, sản xuất đối với người có đất bị thu hồi, chủ tài sản gắn liền với đất cho phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương.

Đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương nêu, để người có đất bị thu hồi không rơi vào hoàn cảnh khó khăn do không có điều kiện sinh kế, không có nghề thay thế, không có vốn sản xuất... từ đó rơi vào tình trạng khó khăn, đề nghị cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu quy định rõ nội dung bên cạnh việc hỗ trợ nhà ở, đất tái định cư thì cơ quan có thẩm quyền phải quy định hỗ trợ sinh kế cho người dân bị thu hồi đất.

Hỗ trợ sinh kế đó bao gồm hỗ trợ đào tạo nghề, hỗ trợ vốn sản xuất và biện pháp khác để bảo đảm người dân có thể tái lập sinh kế sau khi tái định cư. Kết quả hỗ trợ sinh kế này phải được đánh giá định kỳ và điều chỉnh phương án nếu hiệu quả không đạt.

Ngoài ra, tại khoản này có quy định "Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định biện pháp hỗ trợ khác cho từng dự án cụ thể", đại biểu băn khoăn với quy định về nguồn lực để thực hiện, đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, đảm bảo cơ chế, nguồn lực để thực hiện, tránh gây khó khăn cho Ủy ban nhân dân cấp xã.

Tại dự thảo, cơ quan chủ trì soạn thảo đã bổ sung khoản 7 Điều 3 về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất quy định tại điểm b khoản 2 Điều này theo 2 phương án.

Phương án 1: Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với diện tích đất còn lại áp dụng như trường hợp nhà nước thu hồi đất quy định tại Điều 78, Điều 79 Luật Đất đai và điểm a, điểm c khoản 2 Điều này.

Phương án 2: Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với diện tích đất còn lại áp dụng như trường hợp nhà nước thu hồi đất quy định tại Điều 78, Điều 79 Luật Đất đai và điểm a, điểm c khoản 2 Điều này.

Trường hợp tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ được nhận theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tính trên một đơn vị diện tích đất thấp hơn trung bình của giá đất đã thỏa thuận thì người có đất thu hồi được nhận thêm số tiền còn thiếu so với mức trung bình đó.

Nhà đầu tư phải trả số tiền chênh lệch giữa số tiền tính theo mức trung bình của giá đất đã thỏa thuận và số tiền bồi thường, hỗ trợ trong phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; số tiền chênh lệch này được tính vào chi phí đầu tư của dự án.

Quỳnh Nga
Bình luận

Có thể bạn quan tâm