4 nhiệm vụ phát triển làng nghề theo hướng thị trường

Gìn giữ giá trị văn hóa song hành cùng đổi mới sáng tạo, làng nghề Việt Nam đang từng bước nâng cao chất lượng và hướng tới thị trường quốc tế.

Tinh hoa nghề thủ công từ các làng nghề truyền thống

Làng nghề Việt Nam từ lâu đã là biểu tượng văn hóa và tinh hoa thủ công. Mỗi sản phẩm không chỉ thể hiện kỹ năng điêu luyện mà còn chứa đựng tâm hồn, ký ức và câu chuyện của người thợ.

Làng Chuông (Hà Nội) mảnh đất hơn 300 tuổi gắn bó với nghề làm nón lá truyền thống. Ảnh: N.H

Làng Chuông (Hà Nội) mảnh đất hơn 300 tuổi gắn bó với nghề làm nón lá truyền thống. Ảnh: N.H

Tại làng nón Chuông (Hà Nội), mỗi chiếc nón được chế tác tỉ mỉ từ lá cọ già, phơi sương, sấy nắng và ép mịn, xếp chồng khéo léo trên khung tre, khâu bằng sợi cước mảnh. Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, nghệ nhân Lê Văn Tuy chia sẻ, làm nón là nghề, là nghiệp, mỗi chiếc nón ra đời như đứa con tinh thần, chứa đựng cả mồ hôi và tình yêu quê hương.

Điểm độc đáo gần đây, nón Chuông còn kết hợp với lụa Vạn Phúc, tạo nên sản phẩm vừa mang hơi thở hiện đại, vừa giữ được hồn truyền thống. Những chiếc nón “khoác áo lụa” trở thành điểm nhấn vừa quen thuộc, vừa mới lạ, được du khách, giới trẻ và khách quốc tế yêu thích nhờ vẻ thanh lịch, sang trọng nhưng đậm bản sắc Việt.

Tại xã Phượng Dực (Hà Nội), những chiếc tò he được nặn từ bột gạo dẻo mịn không chỉ là đồ chơi mà còn là biểu tượng nghệ thuật dân gian. Nghệ nhân Đặng Văn Hậu, cho biết, nghề tò he nuôi dưỡng tâm hồn, gửi gắm tình yêu và niềm tự hào văn hóa. Từ hình ảnh Thánh Gióng, Tấm Cám đến các nhân vật hiện đại, tò he phản ánh sự sáng tạo và thích ứng của người nghệ nhân.

Nghề nặn tò he không chỉ bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống mà còn mở ra hướng phát triển mới, trở thành sản phẩm làng nghề mang bản sắc dân tộc và giá trị xuất khẩu. Ảnh: N.H

Nghề nặn tò he không chỉ bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống mà còn mở ra hướng phát triển mới, trở thành sản phẩm làng nghề mang bản sắc dân tộc và giá trị xuất khẩu. Ảnh: N.H

Hiện cả nước có khoảng 5.400 làng nghề, trong đó 2.000 làng nghề truyền thống, với 57 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Hà Nội hội tụ 1.350 làng nghề, 337 nghề truyền thống, chiếm gần 90% tổng số nghề truyền thống cả nước là lợi thế lớn để phát triển sản phẩm gắn với công nghiệp văn hóa.

Các sản phẩm làng nghề từ gốm sứ, dệt thêu, mây tre lá, đến kim khí, sơn mài,… đã tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho hàng trăm nghìn lao động, đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu. Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã vươn tới 163 quốc gia, trong đó có Nhật Bản, Mỹ, EU, nhờ sản phẩm thân thiện môi trường và giàu giá trị văn hóa.

Lo ngại nguy cơ mai một dần các làng nghề

Tuy nhiên, làng nghề Việt Nam đang đối mặt nhiều thách thức như nguyên liệu chưa chuẩn hóa, sản xuất nhỏ lẻ, thiếu công nghệ, mẫu mã đơn giản và chưa đáp ứng thị hiếu hiện đại. Nhiều nghề truyền thống đứng trước nguy cơ mai một khi thế hệ trẻ ít quan tâm, dẫn đến việc không còn người kế nghiệp các sản phẩm tinh xảo.

Các quy định quốc tế về lao động, chứng nhận hợp chuẩn, truy xuất nguồn gốc… chưa được nhiều hộ đáp ứng, gây khó khăn trong xuất khẩu. Đồng thời, nhiều sản phẩm thủ công bị gia công giá rẻ, giảm giá trị thương hiệu. Nếu không nâng cao tay nghề và đổi mới sáng tạo, Việt Nam có nguy cơ mất lợi thế trong các sản phẩm thủ công tinh xảo.

Làng nghề không chỉ là báu vật di sản mà còn là trụ cột kinh tế - xã hội quan trọng, với tổng giá trị sản xuất ước đạt hơn 20.000 tỷ đồng mỗi năm.

Làng nghề không chỉ là báu vật di sản mà còn là trụ cột kinh tế - xã hội quan trọng, với tổng giá trị sản xuất ước đạt hơn 20.000 tỷ đồng mỗi năm.

Ông Vũ Hy Thiều, Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Hiệp hội Thủ công mỹ nghệ, một số nghề truyền thống của Việt Nam hiện cũng đang đối mặt với nguy cơ mai một, chẳng hạn nghề trạm bạc. Các sản phẩm trạm bạc tinh xảo như trước đây hiện không còn nhiều, nếu tiếp tục chạy theo thị trường đơn giản, giá rẻ, các nghề thủ công sẽ ngày càng yếu đi.

“Nghề điêu khắc và dệt truyền thống ở Indonesia được kết hợp giữa tay nghề nghệ nhân và công nghệ, giúp vừa bảo tồn giá trị truyền thống, vừa nâng cao năng suất và giá trị sản phẩm, nuôi sống cả nghệ nhân lẫn doanh nghiệp. Trong khi đó, ở Việt Nam, nhiều nghệ nhân không thể sáng tạo vì khó bán sản phẩm với giá cao, dẫn đến tay nghề ngày càng giảm sút”, ông Vũ Hy Thiều dẫn chứng.

Thị trường toàn cầu đang ưa chuộng sản phẩm thủ công, thân thiện môi trường, giàu câu chuyện văn hóa. Quy mô thị trường thủ công mỹ nghệ toàn cầu đạt 753,2 tỷ USD, dự kiến tăng 10% mỗi năm. Việt Nam đã ký kết 17 FTA, trong đó có EVFTA, RCEP, mở rộng cơ hội xuất khẩu sản phẩm làng nghề.

Đồng thời, nhu cầu trong nước ngày càng cao, nhiều người sẵn sàng chi tiền cho sản phẩm thủ công chất lượng cao. Thị trường nội địa cũng là cơ hội để nghệ nhân thử nghiệm, sáng tạo mà không phụ thuộc hoàn toàn vào xuất khẩu.

Theo ông Trịnh Quốc Đạt, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, để phát triển bền vững, cần tập trung vào 4 nhiệm vụ trọng tâm gồm: Cải tiến mẫu mã, bao bì, nâng cao tính ứng dụng; hướng dẫn kỹ thuật, thiết kế, quản lý kinh doanh, marketing cho nghệ nhân trẻ; cung cấp vốn, bảo hộ sở hữu trí tuệ, xúc tiến thương mại và kết nối doanh nghiệp; giữ gìn di sản nghề truyền thống, lưu truyền kỹ thuật, gắn câu chuyện văn hóa vào sản phẩm. Những giải pháp này sẽ giúp làng nghề Việt vừa bảo tồn tinh hoa truyền thống, vừa nâng tầm chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường hiện đại, khẳng định vị thế trên trường quốc tế.

Bảo tồn và phát triển làng nghề không chỉ là nhiệm vụ văn hóa mà còn là chiến lược kinh tế quan trọng. Từ nón Chuông, tò he Xuân La đến hàng nghìn sản phẩm làng nghề khác, mỗi tác phẩm là minh chứng cho sự sáng tạo, tâm huyết và tinh thần Việt. Khi được định hướng đúng, kết hợp thị trường nội địa và xuất khẩu, làng nghề Việt Nam sẽ không chỉ gìn giữ giá trị truyền thống mà còn trở thành biểu tượng văn hóa và thương hiệu quốc tế.

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, chính sách hiện nay đối với nghệ nhân Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Thưởng hay hỗ trợ hầu hết chỉ mang tính tượng trưng, ‘một lần là xong’, trong khi các nước như Thái Lan, Indonesia, Philippines hay Ấn Độ lại đầu tư bài bản, coi nghệ nhân là “bảo vật quốc gia”, duy trì các chế độ tôn trọng và hỗ trợ lâu dài.

Nguyễn Hạnh
Bình luận

Có thể bạn quan tâm