Hành trình kiến tạo chất lượng
Giữa vùng đồi chè xanh ngắt của xã Ngọc Thành (huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên) có một hợp tác xã nhỏ đang âm thầm chuyển mình theo hướng hiện đại, bền vững. Nhưng điều đặc biệt hơn cả là họ không đơn thuần làm ra nông sản, mà đang từng bước thổi hồn vào sản phẩm bằng chính câu chuyện từ mảnh đất quê hương. Đó là Hợp tác xã Nông sản Phú Lương, do ông Tống Văn Viện làm Chủ tịch kiêm Giám đốc, người đã dành cả cuộc đời gắn bó với nông nghiệp và hiện đang trở thành một “người kể chuyện” đầy cảm xúc cho nông sản Việt.
Bắt đầu bằng mô hình nông nghiệp tuần hoàn, hợp tác xã của ông Viện chọn cách phát triển không chỉ dựa trên sản lượng mà trên tính bền vững. Các phụ phẩm nông nghiệp được tận dụng để tạo ra năng lượng sinh học, chất thải được tái chế thành phân hữu cơ quay trở lại chăm sóc những luống chè, ruộng lúa như một vòng tuần hoàn khép kín mà hiệu quả.

ÔngTống Văn Viện, Chủ tịch kiêm Giám đốc Hợp tác xã nông sản Phú Lương (Thái Nguyên). Ảnh: NVCC
“Chúng tôi đang phát triển mô hình kinh tế nông nghiệp tuần hoàn, tận dụng phụ phẩm tại địa phương để tạo ra năng lượng điện và dùng phân hữu cơ bón cho vùng nguyên liệu trồng chè, lúa”, ông Viện chia sẻ. “Trong 5 năm qua, chúng tôi đã xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu chè, lúa đạt kết quả tốt. Hiện tại, vùng chè có hơn 60 ha đạt tiêu chuẩn VietGAP và đến tháng 12 tới sẽ có thêm khoảng 15 ha đạt tiêu chuẩn hữu cơ. Với lúa, chúng tôi đang triển khai 10 ha đạt tiêu chuẩn VietGAP”.
Tư duy hiện đại này không chỉ giúp Hợp tác xã tạo ra sản phẩm sạch, an toàn, mà còn tạo nền tảng để tiến xa hơn, hướng đến những phân khúc thị trường cao cấp. Đối với chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã trở thành một bệ phóng quan trọng cho các nỗ lực đó.
“Việc được tham gia chương trình OCOP đã giúp chúng tôi cập nhật kiến thức để chuẩn hóa sản phẩm từ vùng nguyên liệu, chất lượng đến bao bì để tiếp cận thị trường trung và cao cấp,” ông Viện nói. “Ngoài ra, thông qua OCOP, chúng tôi có điều kiện tham gia các chương trình hỗ trợ, xúc tiến thương mại của các ban ngành, từ đó mở rộng thị trường. Quan trọng hơn, doanh số tăng lên, vùng nguyên liệu mở rộng, và chúng tôi cũng có điều kiện đầu tư thêm trang thiết bị, cải thiện chất lượng sản phẩm và thương hiệu”.
Những kết quả không chỉ đến từ nỗ lực sản xuất mà còn từ tầm nhìn chiến lược. Sản phẩm “Trà tôm nõn Hương Quê” đã được công nhận OCOP 5 sao cấp Trung ương, trong khi các sản phẩm như “Trà móc Hương Quê”, “Trà mầm sương sớm” đạt 4 sao cấp tỉnh. Hợp tác xã cũng đang nâng cấp các sản phẩm khác như bún khô, phở khô, gạo nếp cái... để từng bước tiếp cận chuẩn OCOP cao hơn.
Với ông Viện, khái niệm “thương hiệu” không phải điều gì xa xôi. Nó bắt đầu từ chất lượng thực sự, từ cách làm nông tận tụy và có tầm nhìn. “Với tôi, không thể tách rời chất lượng và thương hiệu. Điều đầu tiên là phải làm ra sản phẩm chất lượng, đó là cái gốc. Từ nền tảng chất lượng, mới có thể kể được những câu chuyện thương hiệu gắn với đặc sản vùng miền, đẩy mạnh xúc tiến và xuất khẩu”, ông khẳng định.
Chất liệu bền vững nhất để xây dựng thương hiệu nông sản
Làm nông sản sạch đã khó, xây dựng thương hiệu cho nông sản lại càng khó hơn. Nhưng ông Viện hiểu rằng, một thương hiệu chỉ thực sự sống trong lòng người tiêu dùng khi nó gắn với cảm xúc với những câu chuyện thật, có hồn và có chiều sâu.
Thương hiệu “Hương Quê”, theo ông Viện, không đơn thuần là tên gọi. Nó là kết tinh của mảnh đất, con người và khát vọng làm giàu bền vững trên chính quê hương mình. “Chúng tôi đã áp dụng phương pháp xây dựng thương hiệu bằng câu chuyện. Thương hiệu ‘Hương Quê’ đã tồn tại 18 năm và được Cục Sở hữu trí tuệ cấp chứng nhận bảo hộ”, ông chia sẻ.
Hai thương hiệu chủ lực hiện nay là “Trà Hương Quê - Tinh túy trà Việt” và “Nông sản Hương Quê - Tinh tế nông sản Việt”. Đằng sau mỗi cái tên là một nỗ lực truyền cảm hứng đến người tiêu dùng, không phải bằng quảng cáo cầu kỳ, mà bằng những trải nghiệm thật. “Câu chuyện của chúng tôi gắn với đặc sản địa phương, một vùng đất có trên 80% dân tộc Tày, với mong muốn phát triển nền nông nghiệp xanh, bền vững và làm giàu trên chính mảnh đất quê hương”, ông Viện nói.
Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu, ông Viện xác định xuất khẩu là một hướng đi chiến lược. Hợp tác xã đã có những lô hàng đầu tiên sang Nhật Bản, và đang mở rộng tìm hiểu các thị trường như Mỹ, châu Âu. Tuy nhiên, để có thể chinh phục các thị trường này, một lần nữa, bài toán “vùng nguyên liệu” lại trở thành điểm mấu chốt.
“Khó khăn lớn nhất là phải có vùng nguyên liệu lớn và đạt chuẩn. Đây là yếu tố then chốt trong nông nghiệp”, ông nói. “Chúng tôi rất mong tiếp tục nhận được sự đồng hành của các ban, ngành, đoàn thể để hỗ trợ kỹ thuật, thông tin, giúp bà con nâng cao nhận thức, cùng chúng tôi xây dựng vùng nguyên liệu bền vững, phục vụ sản xuất đạt chuẩn xuất khẩu”.

Trà tôm nõn Huơng Quê - sản phẩm đạt OCOP 5 sao cấp Trung ương. Ảnh: NVCC
Theo ông, mắt xích yếu nhất hiện nay trong hệ sinh thái sản phẩm nông nghiệp chính là công tác định hướng. Khi người nông dân chưa hiểu được ý nghĩa của việc sản xuất đạt chuẩn, thì mọi nỗ lực đầu tư vào bao bì, nhãn mác hay truyền thông đều chỉ mang tính hình thức.
“Mắt xích yếu nhất chính là công tác định hướng, làm sao để người dân hiểu được giá trị của việc xây dựng vùng nguyên liệu chuẩn, cùng đồng hành với hợp tác xã tạo ra sản phẩm chất lượng, đúng tiêu chuẩn”, ông Viện phân tích.
Nhưng xây dựng câu chuyện thương hiệu không thể chỉ dừng ở khẩu hiệu. Nó phải có hồn, mà theo ông Viện, điều đó chỉ có được khi xuất phát từ sự chân thành. “Yếu tố quan trọng nhất để câu chuyện có hồn là sự chân thành. Nếu không có sự chân thành, thì không thể tạo nên một câu chuyện truyền cảm, không thể truyền được thông điệp đến người tiêu dùng và cũng không thể lan tỏa được đến cộng đồng, các thành viên trong hợp tác xã và bà con đồng hành cùng mình”, ông Viện bày tỏ.
Chân thành, cảm xúc và triết lý sản xuất gắn với chất lượng, đó là những gì ông Tống Văn Viện và Hợp tác xã Nông sản Phú Lương đang âm thầm vun đắp mỗi ngày. Giữa một thị trường nhiều biến động, sự bền vững đôi khi không đến từ những chiến dịch marketing rầm rộ, mà từ những giá trị thật từ vùng nguyên liệu sạch, những sản phẩm tử tế, và cả những người nông dân hiểu rằng, mỗi sản phẩm làm ra là một câu chuyện cần được kể bằng cảm xúc chân thành nhất.