Hai báo cáo trên được tính toán từ kết quả Điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 DTTS ở Việt Nam do Tổng cục thống kê phối hợp với Ủy ban Dân tộc thực hiện năm 2015 và năm 2019. Hai báo cáo tập trung vào 7 chủ đề chính: Dân số; cơ sở hạ tầng và tài sản; lao động, việc làm, thu nhập; giáo dục và đào tạo; văn hóa và xã hội; y tế và vệ sinh môi trường, và cán bộ, công chức là người DTTS.
Phụ nữ và trẻ em gái DTTS cần được tạo điều kiện tốt hơn để tiếp cận các cơ hội và nguồn lực phát triển |
Kết quả phân tích số liệu tách biệt giới tính trong giai đoạn 2015 - 2019 cho thấy không ít thành tựu nổi bật về bình đẳng giới trong các vùng DTTS và miền núi như: Tỷ lệ tảo hôn của người DTTS đã giảm 4,7 phần trăm; tỷ lệ hộ gia đình DTTS có kết nối internet (Wi-Fi, cáp hoặc 3G) tăng 9,4 lần (từ 6,5% năm 2015 lên 61,3% năm 2019); thu nhập bình quân một tháng của một nhân khẩu người DTTS năm 2018 đã tăng mạnh 1,8 lần so với năm 2014 và thu nhập trung bình hàng tháng của hộ gia đình DTTS có chủ hộ là nữ luôn cao hơn so với chủ hộ là nam; tỷ lệ đi học đúng tuổi của trẻ em DTTS tăng 15,2% trong giai đoạn 2015 - 2019; tỷ lệ người DTTS tham gia bảo hiểm y tế đạt 93,5% trong đó không có sự khác biệt giữa nam và nữ, v.v...
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, báo cáo cũng chỉ rõ vấn đề giới ảnh hưởng đến phụ nữ và trẻ em gái đang còn tồn tại trong vùng DTTS và miền núi. Tỷ lệ tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống nói chung ở 53 DTTS tuy có giảm, nhưng mức giảm chưa đồng đều và cá biệt vẫn tiếp tục tăng trong một số dân tộc. Lao động nữ DTTS làm các công việc không ổn định, dễ bị tổn thương nhiều hơn so với lao động nam DTTS và lao động nữ người Kinh. Tỷ lệ phụ nữ DTTS từ 10 - 49 tuổi sinh con tại cơ sở y tế đạt 86,4%, trong khi phụ nữ Kinh là trên 99% v.v.
Lý giải cho những tồn tại này, ông Bùi Tôn Hiến, Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội, thông tin: “Trong cộng đồng người DTTS, phụ nữ và trẻ em gái thường là những đối tượng thiệt thòi hơn về khả năng tiếp cận các cơ hội, các nguồn lực, do các chuẩn mực xã hội áp đặt vị trí thấp kém hơn cho họ, giới hạn họ ở các hoạt động sinh con và sản xuất hộ gia đình”.
Theo bà Elisa Fernandez Saenz, Trưởng đại diện UN Women tại Việt Nam: Báo cáo được thực hiện nhằm mục tiêu cung cấp cho các bên liên quan một bức tranh rõ nét hơn về thực trạng bình đẳng giới ở các vùng DTTS ở Việt Nam, vấn đề giới nào đang được Chính phủ giải quyết tốt và vấn đề nào cần tiếp tục nỗ lực can thiệp về cả chính sách và chương trình. “Các vấn đề bình đẳng giới đan xen với các yếu tố dân tộc thường khó giải quyết và đòi hỏi cách tiếp cận toàn diện cũng như cần những cam kết đầu tư nguồn lực tài chính trong những năm tới. UN Women tin rằng báo cáo này sẽ góp phần lấp khoảng trống về số liệu thống kê giới trong các DTTS Việt Nam và đóng góp vào tiến trình thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và phát triển bền vững ở các vùng DTTS” - bà Elisa Fernandez Saenz nhấn mạnh. Đánh giá cao các đóng góp kỹ thuật của UN Women, ông Lưu Xuân Thủy – Vụ trưởng Vụ DTTS - tin tưởng: “Những phân tích về bình đẳng giới ở vùng DTTS là thông tin nền tảng và hữu ích cho các bên liên quan để thiết kế các chính sách và chương trình can thiệp để đảm bảo phụ nữ DTTS không bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển bền vững của đất nước”.
Với “Chương trình Mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng và miền núi giai đoạn 2021 - 2030” đang được xem xét để khẩn trương triển khai, hy vọng các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong quá trình xây dựng, thực hiện và giám sát các chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở vùng DTTS và miền núi sẽ quan tâm và sử dụng số liệu thống kê giới được đề cập trong hai báo cáo nói trên. Bởi lẽ, những tính toán công phu của báo cáo là cơ sở quan trọng để việc giải quyết các vấn đề về giới trong vùng DTTS được căn cơ và hiệu quả hơn.