Lĩnh vực năng lượng
Hôm nay ngày 25/9 tờ Bnews.vn đưa tin: "Việt Nam - Hàn Quốc thúc đẩy hợp tác về đầu tư năng lượng và tăng trưởng xanh"
Ngày 25/9, Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Tài chính và Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) tổ chức Hội thảo tổng kết Dự án “Thúc đẩy thị trường đầu tư tiết kiệm và hiệu quả năng lượng trong lĩnh vực công nghiệp và hỗ trợ thực hiện Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh Việt Nam”.
Hội thảo có sự tham dự của 100 đại biểu đến từ Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, KOICA, Cơ quan Năng lượng Hàn Quốc (KEA), các bộ ngành trung ương, Sở Công Thương, Sở Tài chính, trung tâm khuyến công và tư vấn phát triển công nghiệp các địa phương, cùng các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp và chuyên gia trong lĩnh vực năng lượng và tăng trưởng xanh.
Phát biểu khai mạc, bà Nguyễn Thị Lâm Giang, Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương), nhấn mạnh, dự án do Chính phủ Hàn Quốc tài trợ thông qua KOICA là minh chứng rõ rệt cho mối quan hệ hợp tác hữu nghị, tin cậy và hiệu quả giữa hai Chính phủ Việt Nam và Hàn Quốc.
Sau hơn 3 năm triển khai, dự án đã đạt nhiều kết quả thiết thực, góp phần thúc đẩy thị trường đầu tư cho các giải pháp tiết kiệm năng lượng trong lĩnh vực công nghiệp, hỗ trợ thực hiện các mục tiêu của Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh quốc gia, đồng thời nâng cao năng lực cho các cơ quan quản lý, doanh nghiệp và tổ chức tài chính trong việc tiếp cận, thẩm định và triển khai các dự án tiết kiệm năng lượng.
Thành công của dự án đã tạo nền tảng quan trọng để tiếp tục nhân rộng các mô hình, kinh nghiệm tốt, góp phần xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư và mở rộng thị trường năng lượng tiết kiệm, hiệu quả tại Việt Nam trong thời gian tới, bà Lâm Giang khẳng định.
Dự án được triển khai trong giai đoạn 2021–2025 trên phạm vi toàn quốc, do Bộ Công Thương chủ quản, với Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công làm chủ dự án, nhằm đóng góp vào mục tiêu quốc gia về giảm cường độ năng lượng, đảm bảo an ninh năng lượng cho phát triển kinh tế - xã hội và giảm phát thải khí nhà kính. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm triển khai các hợp phần về tăng trưởng xanh.
Báo điện tử Đầu tư đưa tin: "Toàn bộ 4.800 MW điện khí LNG Hải Phòng sẽ vận hành trước năm 2030"
Dự án Nhà máy điện khí LNG Hải Phòng có quy mô lên tới 4.800 MW, được chia làm hai giai đoạn đầu tư.
Trong đó giai đoạn 1 có quy mô 1.600 MW đang chuẩn bị khởi công trong cuối tháng 9/2025 này, dự kiến hoàn thành xây dựng và đưa vào hoạt động chính thức chậm nhất vào năm 2030. Giai đoạn 2 dự kiến khởi công xây dựng năm 2028 với kế hoạch hoàn thành xây dựng chậm nhất vào năm 2035.
Tuy nhiên, với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, cùng với việc sáp nhập hai tỉnh, thành phố Hải Dương - Hải Phòng, việc phát triển ngành công nghiệp nói riêng (trong đó tập trung vào việc phát triển các khu công nghiệp để thu hút đầu tư các hoạt động sản xuất) và các ngành kinh tế nói chung trên địa bàn Hải Phòng sẽ cần một nguồn cung cấp điện lớn.
Vì thế, nhiều nhận xét cũng cho rằng, việc triển khai đồng bộ 4.800 MW là cơ sở để tối ưu hiệu quả kinh tế của dự án, giảm suất đầu tư, rút ngắn thời gian xây dựng, sớm đưa dự án vào khai thác; thông qua đó đẩy nhanh tiến độ thực hiện Dự án.
Do vậy, nhà đầu tư cũng đã dự kiến đưa vào vận hành toàn bộ công suất ngay trước năm 2030 sẽ góp phần giải quyết căn cơ, cấp bách nguy cơ thiếu điện cho miền Bắc, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Do đây là nguồn điện nền công suất lớn, ổn định, giúp giảm phụ thuộc vào thuỷ điện và áp lực truyền tải điện Bắc - Nam, tạo nền tảng hạ tầng vững chắc để thu hút các dự án FDI công nghệ cao như bán dẫn, trung tâm dữ liệu.
Đồng thời tạo cú hích phát triển đột phá, đưa Hải Phòng thành một trong những trung tâm năng lượng lớn nhất cả nước và đóng góp lớn hơn cho ngân sách, tạo ra hàng nghìn việc làm mới, nên UBND TP. Hải Phòng cũng đã đề nghị Bộ Công thương điều chỉnh tiến độ của dự án này trong Quy hoạch điện VIII.
Theo đó, toàn bộ Nhà máy điện khí LNG Hải Phòng công suất 4.800 MW có thời gian vận hành trước năm 2030.
Lĩnh vực xuất nhập khẩu
Tờ Công an Nhân dân đăng tin: "Cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang thị trường châu Âu"
Sáng 25/9, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh (ITPC) phối hợp với Cục Xúc tiến Thương mại (Vietrade) và Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) tổ chức Hội thảo “Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp Việt Nam khi thực thi các Hiệp định thương mại quốc tế - FTAs”.
Theo số liệu của Bộ Công Thương, từ năm 2023 đến 2024, doanh thu xuất khẩu đối với hàng hóa được hưởng thuế quan ưu đãi theo Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) đạt tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là 12,7%. Việc ký kết các FTA mang tính chiến lược đã đưa Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn cho các dây chuyền sản xuất từ các nước trên thế giới.
Tại hội thảo, các đại biểu cho rằng, các FTA tạo ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp Việt Nam, nhưng đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu cao hơn về sự phát triển bền vững, minh bạch pháp lý và tài chính, tuân thủ quy định quốc tế, cam kết ESG, khả năng kiểm soát rủi ro, nguồn gốc nguyên liệu và xuất xứ hàng hóa... Các doanh nghiệp không nên xem đây là “gánh nặng” hay “rào cản” mà chính là cơ hội để doanh nghiệp nâng cấp chuẩn mực quản trị.
Bà Bùi Hoàng Yến, Đại diện Văn phòng Cục Xúc tiến Thương mại phía Nam, Bộ Công Thương cho biết, tiến trình hội nhập của Việt Nam ngày càng trở nên ấn tượng với việc tham gia vào các FTA và tiếp cận những thị trường rộng lớn như CPTPP, EU. Đến nay, Việt Nam đã ký kết 18 FTA, trong đó 17 hiệp định đã có hiệu lực (bao gồm Hiệp định Thương mại Việt Nam - Cuba), mở ra cánh cửa tiếp cận thị trường với hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm gần 90% GDP toàn cầu.
Trang điện tử sggp.org.vn đưa tin: "Doanh nghiệp Việt Nam mới tận dụng 30-40% ưu đãi FTA"
Ngày 25/9, tại TP. Hồ Chí Minh, Hội thảo “Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp Việt Nam khi thực thi các Hiệp định thương mại quốc tế (FTA)” cho thấy một nghịch lý, Việt Nam đã ký 18 FTA, 17 hiệp định có hiệu lực, bao phủ gần 90% GDP toàn cầu, nhưng tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan của doanh nghiệp trong nước chỉ ở mức 30-40%.
Theo bà Bùi Hoàng Yến, Phụ trách Văn phòng Cục Xúc tiến Thương mại phía Nam Bộ Công Thương, tiến trình hội nhập đã mở ra cơ hội tiếp cận hơn 60 thị trường lớn trên thế giới. Nhờ tham gia hàng loạt FTA quan trọng như EVFTA, CPTPP, RCEP, năm 2024 tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam đạt 786,2 tỷ USD, xuất khẩu tăng 14,3% so với năm 2023, thặng dư thương mại ở mức 24,8 tỷ USD. Đây là bước tiến quan trọng giúp hàng hóa Việt Nam có chỗ đứng vững hơn trên bản đồ thương mại quốc tế.
Một số doanh nghiệp đã chứng minh được lợi ích rõ rệt khi tận dụng ưu đãi FTA. Cụ thể, công ty TNHH Sienna Việt Nam, nhờ EVFTA, sản phẩm bút kiểm tra bao bì nhựa được giảm thuế nhập khẩu từ 25-37,5% xuống 0%, tạo lợi thế cạnh tranh lớn ở châu Âu. Công ty May Chiến Thắng đạt tới 90% doanh thu từ thị trường EU nhờ chủ động nguyên liệu trong nước. Còn thương hiệu Hibiso của Công ty Trà ANTO đã xuất khẩu thành công sang Hàn Quốc và Hà Lan với mức thuế ưu đãi nhờ tuân thủ đầy đủ quy định về xuất xứ và chất lượng.

Tỷ lệ hàng hoá sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam tận dụng lợi thế của FTA còn rất hạn chế
Lĩnh vực thị trường trong nước
Trang điện tử vanhoavaphattrien.vn đưa tin: "Diễn đàn OCOP vùng Đồng bằng sông Cửu Long năm 2025 tại An Giang: Liên kết cùng phát triển"
Từ ngày 25 đến 28/9/2025, tại phố đi bộ Nguyễn Huệ, phường Long Xuyên, (An Giang), Diễn đàn OCOP vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được tổ chức. Sự kiện do Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, phối hợp cùng UBND tỉnh An Giang thực hiện, với mục tiêu thúc đẩy kết nối giao thương, quảng bá sản phẩm OCOP, hướng đến phát triển kinh tế nông thôn bền vững và nâng tầm thương hiệu vùng đất châu thổ.
Theo ban tổ chức, Diễn đàn OCOP vùng Đồng bằng sông Cửu Long 2025 là sự kiện tổ chức luân phiên hàng năm giữa các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nhằm quảng bá, giới thiệu, kết nối và hỗ trợ kết nối các sản phẩm tỉnh An Giang đến các tỉnh, thành phố và doanh nghiệp trong cả nước, đồng thời, giúp các chủ thể giao lưu, trao đổi nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh hợp tác cùng phát triển. Tính đến tháng 9/2025, cả nước có 17.316 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên, trong đó 72,1% sản phẩm 3 sao, 27,1% sản phẩm 4 sao, 126 sản phẩm 5 sao, còn lại là tiềm năng 5 sao; 9.345 chủ thể OCOP, trong đó có 32,9% là HTX, 25,8% là doanh nghiệp nhỏ, 33,1% là cơ sở sản xuất/hộ kinh doanh, còn lại là tổ hợp tác, – minh chứng cho sự lan tỏa mạnh mẽ của phong trào này.
Riêng khu vực ĐBSCL (Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang và Cà Mau) có 3.907 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên (tăng 956 sản phẩm so với tháng 9/2024, đứng thứ 2 cả nước sau đồng bằng sông Hồng), trong đó 77,8% sản phẩm 3 sao, 20,3% sản phẩm 4 sao, 38 sản phẩm 5 sao; 2.009 chủ thể OCOP (tăng 488 chủ thể so với tháng 9/2024), trong đó có 16,3% là HTX, 17,9% là doanh nghiệp nhỏ, 65,1% là cơ sở sản xuất/hộ kinh doanh, còn lại là tổ hợp tác. OCOP đã và đang trở thành nền tảng quan trọng để khơi dậy tiềm năng, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân.