Tìm hiểu tư tưởng của Ph. Ăngghen về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Ph. Ăngghen (1820 - 1895) là người bạn, người đồng chí thân thiết của C. Mác, người đã cùng C. Mác sáng lập học thuyết Mác - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Ph. Ăngghen đã có những cống hiến to lớn về tư tưởng, lý luận và trở thành lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Ph. Ăngghen (1820 - 1895) là người bạn, người đồng chí thân thiết của C. Mác, người đã cùng C. Mác sáng lập học thuyết Mác - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Ph. Ăngghen đã có những cống hiến to lớn về tư tưởng, lý luận và trở thành lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Là một nhà lý luận cách mạng thiên tài, ngoài những tác phẩm viết chung với C. Mác, Ph. Ăngghen đã để lại cho nhân loại rất nhiều tác phẩm lớn như: Tình cảnh giai cấp công nhân Anh; Chống Ðuyrinh; Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước; Biện chứng tự nhiên; Vấn đề nông dân ở Pháp và Ðức... Trong những tác phẩm đó, Ph. Ăngghen không những trình bày một cách sâu sắc những vấn đề lý luận cơ bản về triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa cộng sản khoa học mà còn bút chiến đanh thép chống lại những quan điểm, luận điệu sai trái của giới học giả tư sản, cũng như của các phần tử cơ hội. Sau khi C. Mác qua đời, Ph. Ăngghen đã đảm nhiệm trọng trách lãnh đạo giai cấp công nhân quốc tế và dồn toàn bộ công sức, trí tuệ vào việc bảo vệ và phát triển học thuyết Mác. Các tác phẩm của Ph. Ăngghen đã làm phong phú thêm lý luận thiên tài của C. Mác, trở thành bộ phận hợp thành hữu cơ của chủ nghĩa Mác. Với sự uyên bác và mẫn cảm khoa học cộng với khả năng phân tích và tổng kết thực tiễn lịch sử để khám phá lý luận, Ph. Ăngghen đã tạo nên một phong cách tư duy độc đáo. Trung thành với sự nghiệp của Mác, song Ph. Ăngghen luôn đấu tranh chống lại sự giáo điều. Bằng bản lĩnh khoa học vững vàng và sự dũng cảm biết vượt lên mọi hoàn cảnh, Ph. Ăngghen không ngừng phát triển lý luận mác - xít, hoàn thiện học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học.
Một trong những điểm nhấn sáng tạo của Ph. Ăngghen là tư duy biện chứng về con đường lên chủ nghĩa xã hội. Theo Ph. Ăngghen, quan niệm và thực tiễn quá trình kiến tạo xã hội xã hội chủ nghĩa luôn phải được bổ sung, hoàn thiện khi thực tiễn cuộc sống đặt ra những vấn đề mới. Phát triển lý luận mác-xít về thời kỳ quá độ, Ph. Ăngghen nêu luận điểm “phát triển rút ngắn”, sau này Lênin nêu thành khả năng “không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” để tiến lên chủ nghĩa xã hội đối với các nước, các dân tộc chậm phát triển.
Ðề cập đến sự “quá độ lên xã hội cộng sản” trong hoàn cảnh của những năm cuối thập niên 80-đầu thập niên 90 thế kỷ XIX, Ph. Ăngghen luôn nhấn mạnh rằng, cần phải suy nghĩ kỹ, không được nôn nóng, không được phép kết luận vội vàng, bởi đây là vấn đề khó nhất trong tất cả những vấn đề tồn tại ở một thời kỳ mà các điều kiện không ngừng thay đổi. Nét độc đáo trong tư duy biện chứng của Ph. Ăngghen thể hiện ở sự nhận thức về tính thống nhất phổ biến giữa cái tất yếu và cái có thể trong vận động của toàn bộ thế giới khách quan. Phép biện chứng duy vật mácxít từng vạch rõ, tiến trình lịch sử nhân loại tất yếu phát triển từ thấp đến cao, và do đó xã hội cộng sản chủ nghĩa với tính cách một xã hội cao hơn, tốt đẹp hơn xã hội tư bản, tất yếu sẽ thay thế xã hội tư bản. Ðây là quy luật của lịch sử, là quá trình lịch sử - tự nhiên trong sự vận động của xã hội loài người. Nhưng do những điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị, truyền thống văn hóa khác nhau mà dân tộc này hay dân tộc khác có thể bỏ qua một hoặc một số bước phát triển nào đó trong những bước đi chung mà nhân loại phải trải qua. Quan điểm của Ph. Ăngghen về sự thống nhất giữa cái tất yếu và cái có thể là cơ sở phương pháp luận khoa học tiếp cận tính đa dạng, phong phú và nhiều vẻ của hình thức phát triển xã hội loài người.
Phát triển quan niệm về thời kỳ quá độ, Ph. Ăngghen khẳng định, đối với các nước đang ở giai đoạn tiền tư bản hoặc chưa từng trải qua con đường phát triển Tư bản chủ nghĩa đều “không những có thể mà còn chắc chắn... rút ngắn một cách đáng kể quá trình phát triển của mình lên xã hội xã hội chủ nghĩa và có thể tránh được phần lớn những đau khổ và những cuộc đấu tranh mà ở Tây Âu... phải trải qua”1. Tư duy biện chứng mang tầm vóc vạch dòng thời đại này vẫn nóng hổi ý nghĩa lý luận và tính thời sự cấp bách đối với các đảng cộng sản, công nhân quốc tế, trong đó có Ðảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Tư duy biện chứng của Ph. Ăngghen về phương thức phát triển “rút ngắn” cho thấy rõ, nước ta có điều kiện bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Về khách quan, trước hết đó chính là yếu tố thời đại. Con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta diễn ra trong thời đại mà nội dung chủ yếu của nó vẫn là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, gắn với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ và quá trình toàn cầu hóa. Thực tế khách quan này vừa đặt ra thách thức không nhỏ, đồng thời tạo thời cơ thuận lợi cho sự phát triển đất nước.
Thấm nhuần tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung của Ph. Ăngghen về con đường đi đi lên chủ nghĩa xã hội Đảng ta đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đảng đã lựa chọn “con đường đi lên của nước ta là quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. “Đây là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp và do vậy, tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội có tính chất quá độ”3. Bởi lẽ, con đường đó không chỉ phù hợp với tính tất yếu của lịch sử, với quy luật và xu thế phát triển của thời đại, mà hơn hết và trên hết, còn phù hợp với bối cảnh lịch sử - cụ thể ở nước ta hiện nay.
Nước ta đã đồng thời diễn ra bước quá độ từ xã hội phong kiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, xét về mặt tính chất của chế độ chính trị - xã hội và quá độ từ nông nghiệp cổ truyền lạc hậu lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, xét về mặt trình độ phát triển kinh tế. Điều này được xem là đặc điểm căn bản nói lên loại hình phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta là thuộc loại hình “phát triển rút ngắn”và phương thức “quá độ gián tiếp”.
Tuy nhiên, phải hiểu rằng, sự “phát triển rút ngắn”, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta vẫn là quá trình lịch sử - tự nhiên. Chỉ khi người ta “rút ngắn” một cách duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan thì lúc đó, sự phát triển rút ngắn mới trở thành đối lập với tiến trình lịch sử - tự nhiên của các hình thái kinh tế- xã hội. “Thực chất của sự “phát triển rút ngắn” chính là tạo ra sự phát triển mạnh mẽ, thậm chí nhảy vọt của lực lượng sản xuất”5.
Nội dung của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam được Đảng ta xác định: “Bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đạt được dưới chế độ tư bản nghĩa để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”6. Theo đó, “phát triển rút ngắn” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về phương diện chính trị, là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Về mặt kinh tế, là rút ngắn quá trình công CNH, HĐH; tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Cần xác định rõ ràng rằng, chúng ta bỏ qua chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và tình trạng áp bức, bóc lột chứ không bỏ qua những thành tựu văn minh vật chất và tinh thần mà loài người đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là vấn đề có tính nguyên tắc cần thiết được nhận thức và vận dụng trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Vậy là, “bỏ qua” mà “không bỏ qua”. Điều này đòi hỏi “phải biết thâu thái và làm chủ những tài sản văn hóa của loài người đã sáng tạo ra mà chủ nghĩa tư bản từng phát triển tới những đỉnh cao”7, để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội cho thấy nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ngày càng sáng rõ hơn, Đảng ta đã đã từng bước bổ sung, phát triển đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Trong điều kiện khó khăn của sự tìm tòi, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội, Đảng đã thể hiện ngày càng rõ quan niệm về chủ nghĩa xã hội và cần được tiếp tục bổ sung phát triển cùng với sự phát triển của thực tiễn đất nước và của thời đại. Kinh nghiệm và những bài học được tích lũy để Đảng ta từng bước hoàn thiện lý luận đổi mới để pháttriển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó, nội lực của đất nước và dân tộc đã được huy động vào các mục tiêu của phát triển, cùng với các nguồn ngoại lực ngày càng được tận dụng, khai thác có hiệu quả nội lực, bảo đảm cho sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam đi tới thắng lợi. Vì vậy, tại Đại hội XII, Đảng ta khẳng định: “Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Thành tựu và những kinh nghiệm, bài học đúc kết từ thực tiễn tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới”3.
Có thể nói, phương pháp luận, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, tư duy biện chứng của Ph.Ăng ghen nói riêng về thời kỳ quá độ là một hệ thống tri thức quý báu, đòi hỏi cần được nghiên cứu nghiêm túc để có thêm cơ sở khoa học cho bổ sung, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học. Để tiếp tục đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hộiở nước ta, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
-----------------------------------
Tài liệu tham khảo:
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, t.37, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.632, 641
2. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.16.
3. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.67.
4. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.70
5. Xem Dương Phú Hiệp: Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.193.
6. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.84.
7. Xem Hoàng Chí Bảo: “Từ những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 11-2002, tr.10.
ThS. Trịnh Thị Phượng
Khoa Lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh