Thị trường tài chính: Trụ cột bảo đảm mục tiêu tăng trưởng hai con số

Hướng tới mục tiêu tăng trưởng hai con số từ 2026, thị trường tài chính, đặc biệt hệ thống ngân hàng được khẳng định là trụ cột dẫn vốn và bảo đảm ổn định cho nền kinh tế Việt Nam.

Ngày 4/11, tại TP. Hồ Chí Minh, trong khuôn khổ Diễn đàn Đầu tư Việt Nam 2026 (Vietnam Investment Forum 2026 - VIF 2026) đã diễn ra phiên thảo luận với chủ đề: “Thị trường tài chính -Trụ cột và động lực tăng trưởng Việt Nam” tập trung làm rõ vai trò của hệ thống ngân hàng trong việc hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai chữ số từ năm 2026 và duy trì ổn định trong giai đoạn dài hạn hướng tới 2045.

Phiên thảo luận với chủ đề “Thị trường tài chính - Trụ cột và động lực tăng trưởng Việt Nam”

Phiên thảo luận với chủ đề “Thị trường tài chính - Trụ cột và động lực tăng trưởng Việt Nam”

Thị trường tài chính - trụ cột bảo đảm mục tiêu tăng trưởng hai con số

Điều phối phiên thảo luận, PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân - Thành viên Tổ Tham mưu Thành lập Trung tâm Tài chính Quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Để đạt kịch bản tăng trưởng 10% và duy trì liên tục trong 20 năm, Việt Nam cần một lượng vốn cực lớn, trong đó thị trường tài chính và đặc biệt hệ thống ngân hàng tiếp tục đóng vai trò trung tâm dẫn vốn. “Nền kinh tế Việt Nam dựa chủ yếu vào ngân hàng (bank-based system). Tỷ lệ dư nợ/GDP đã vượt 130%, cho thấy mức độ phụ thuộc vốn tín dụng ngân hàng rất lớn và xu hướng này khó thay đổi trong trung hạn”, ông nói.

TS. Nguyễn Tú Anh - Giám đốc Nghiên cứu Chính sách Trường Đại học VinUni nhấn mạnh vai trò của tín dụng đối với tăng trưởng thực. Ông phân tích, để đạt mức tăng trưởng GDP thực 10%, cộng với lạm phát khoảng 3%, tốc độ tăng trưởng danh nghĩa sẽ vào khoảng 13%/năm. “Để phục vụ mức tăng này, tín dụng thường phải vượt tăng trưởng GDP danh nghĩa ít nhất 2-3 điểm phần trăm. Như vậy, tín dụng cần tăng khoảng 15%/năm trong giai đoạn tới. Chỉ riêng điều này đã cho thấy vai trò then chốt của hệ thống ngân hàng”.

TS. Nguyễn Tú Anh - Giám đốc Nghiên cứu Chính sách Trường Đại học VinUni

TS. Nguyễn Tú Anh - Giám đốc Nghiên cứu Chính sách Trường Đại học VinUni

Theo ông, Việt Nam sẽ tiếp tục vận hành trong cấu trúc tài chính dựa vào ngân hàng ít nhất 15 năm nữa, do thị trường vốn còn non trẻ, mức độ chấp nhận rủi ro và năng lực quản trị rủi ro của nhà đầu tư còn hạn chế. Trong khi đó, ngân hàng sở hữu lợi thế vượt trội về thu thập và xử lý thông tin, định giá rủi ro, năng lực quản trị và quy mô vốn. “Thị trường vốn muốn phát triển phải có lực lượng nhà đầu tư chuyên nghiệp dày dặn và hệ thống pháp luật hoàn thiện hơn. Đó là quá trình dài hạn”, TS. Tú Anh nhấn mạnh.

Ông cũng đề cao vai trò tiên phong của ngân hàng trong chuyển đổi số, coi đây là động lực lớn thúc đẩy năng lực cạnh tranh quốc gia. Hệ thống ngân hàng đang đi đầu trong triển khai định danh điện tử (eKYC), thanh toán số, nền tảng API và open banking, hình thành hạ tầng dữ liệu dùng chung, hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt SME tiếp cận tín dụng thuận lợi hơn trên nền tảng minh bạch hóa dữ liệu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo. “Trong tương lai, ngân hàng còn tiến xa với hợp đồng thông minh (smart contract), thúc đẩy hiệu quả, giảm rủi ro và mở rộng khả năng cung ứng dịch vụ tài chính”, ông nói.

PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân nhận định: “Ngân hàng không chỉ là kênh huy động và phân bổ vốn, mà còn là lực lượng đổi mới sáng tạo, dẫn dắt chuyển đổi số trong nền kinh tế. Quan hệ ngân hàng – doanh nghiệp ngày càng mở, tạo hệ sinh thái dữ liệu và công nghệ phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, đặc biệt với khu vực SME”.

Tín dụng doanh nghiệp, hạ tầng - năng lượng và sự phân hóa hệ thống ngân hàng

Thảo luận về vai trò và triển vọng hệ thống ngân hàng trong giai đoạn mới, ông Quản Trọng Thành - Giám đốc Khối Phân tích Maybank Securities Vietnam - nhấn mạnh định chế ngân hàng sẽ vẫn là kênh dẫn vốn chủ đạo của nền kinh tế. Theo ông, tỷ lệ tín dụng/GDP hiện khoảng 134% vẫn nằm trong vùng an toàn và còn dư địa mở rộng. Giai đoạn 2013-2022, tín dụng tăng chủ yếu nhờ mảng bán lẻ và cho vay cá nhân; đến sau 2022, xu hướng dịch chuyển sang cho vay doanh nghiệp rõ rệt và được coi là hướng đi bền vững hơn.

Ông Quản Trọng Thành – Giám đốc Khối Phân tích Maybank Securities Vietnam.

 Ông Quản Trọng Thành – Giám đốc Khối Phân tích Maybank Securities Vietnam.

Đáng chú ý, cấu trúc tín dụng doanh nghiệp hiện phản ánh vai trò tiên phong trong đầu tư sản xuất và hạ tầng. Ông Thành dẫn số liệu cho biết giai đoạn 2020-2024, tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 682 tỷ USD, trong đó đầu tư sản xuất chiếm tỷ trọng lớn nhất, khu vực FDI chiếm phần chủ đạo, phần còn lại khoảng 44% do ngân hàng trong nước cung cấp. Ba ngân hàng thương mại Nhà nước lớn đang đảm nhiệm khoảng 60% vốn cho vay đối với khu vực doanh nghiệp sản xuất nội địa. “Không gian cho các ngân hàng tư nhân vì thế khá hạn chế, buộc họ phát triển mạnh mảng bán lẻ và SME - xu hướng sẽ còn tiếp diễn nhưng với định hướng bền vững hơn, dựa vào dữ liệu và công nghệ”, ông nói.

Một điểm nhấn khác là triển vọng tín dụng hạ tầng và năng lượng. Theo tính toán, để đạt mục tiêu GDP tăng 10%/năm, Việt Nam cần khoảng 1.400 tỷ USD vốn đầu tư trong 5 năm tới, tức bình quân 280 tỷ USD/năm. Nguồn vốn FDI chỉ khoảng 24-30 tỷ USD mỗi năm, phần còn lại phải đến từ ngân sách và khu vực tư nhân trong nước, trong đó ngân hàng đóng vai trò quyết định. “Miếng bánh hạ tầng năng lượng đang mở ra rất lớn. Xu hướng ‘công tư kiến quốc’ sẽ đẩy khu vực tư nhân và ngân hàng tư nhân lên vai trò chủ lực”, ông Thành nhận định.

Tuy nhiên, ngân hàng thương mại Nhà nước vẫn là lực lượng trụ cột, đặc biệt trong điều tiết thanh khoản, ổn định thị trường và thu hút vốn quốc tế. Việc nâng cao sức khỏe tài chính, tăng vốn chủ sở hữu và cải thiện tỷ lệ an toàn vốn (CAR) cho khối này là yêu cầu cấp thiết nhằm phục vụ mục tiêu nâng hạng tín nhiệm quốc gia và thị trường tài chính Việt Nam. Minh chứng, VietinBank thời gian qua tăng trưởng lợi nhuận tốt, giữ lại lợi nhuận để tăng vốn, cải thiện năng lực cung ứng tín dụng. “Kỳ vọng Vietcombank, BIDV cũng sẽ tiếp tục duy trì chiến lược củng cố sức khỏe tài chính, góp phần dẫn dắt thị trường”, ông Thành nói.

Ở góc độ chuyển đổi số, các ngân hàng đang tiến rất nhanh. Việc hỗ trợ hộ kinh doanh, SME chuyển đổi số hóa sổ sách, chuẩn hóa dữ liệu, tạo nền tảng chấm điểm tín dụng bằng AI đang giúp mở rộng độ bao phủ tín dụng và nâng cao chất lượng quản trị rủi ro. “Đây là bước chuyển từ tăng trưởng tín dụng về lượng sang tăng trưởng về chất”, ông Thành khẳng định.

Hướng tới mô hình tập đoàn tài chính 

Từ kinh nghiệm quốc tế, TS. Nguyễn Minh Cường - Chuyên gia kinh tế (ADB) nhìn nhận mô hình tập đoàn tài chính là xu hướng tất yếu khi ngân hàng tích tụ đủ vốn và năng lực. Tuy nhiên, mô hình này tại Việt Nam cần đặt trong bối cảnh nền kinh tế thực vẫn đang phát triển chưa đồng đều. “Cơ cấu kinh tế Việt Nam vẫn dựa trên nền tảng doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, 35 - 45 triệu lao động trong khu vực phi chính thức. Điều này phản ánh hệ thống tài chính khó chuyển nhanh sang mô hình thị trường vốn hóa mạnh”, ông phân tích.

TS. Nguyễn Minh Cường - Chuyên gia kinh tế (ADB).

 TS. Nguyễn Minh Cường - Chuyên gia kinh tế (ADB).

Theo TS. Cường, chất lượng tín dụng quan trọng hơn số lượng. Vốn ngân hàng chủ yếu chảy vào vài lĩnh vực trọng điểm như bất động sản, ngân hàng, chứng khoán. “Tỷ lệ tín dụng/GDP cao không đáng lo nếu dòng vốn sử dụng hiệu quả và chu kỳ dự án phù hợp cấu trúc nguồn vốn. Nhiều nước phát triển hạ tầng nhanh với vốn vay ngắn hạn vì thời gian triển khai chỉ 2-3 năm. Vấn đề nằm ở tốc độ và năng lực thực thi”, ông nêu.

Về xu hướng tập đoàn tài chính, ông cho rằng sự phát triển của ngân hàng đang đi nhanh hơn nền kinh tế thực, tạo khoảng chênh giữa năng lực quản trị doanh nghiệp và năng lực giám sát của cơ quan quản lý. “Nếu mô hình tập đoàn tài chính phát triển nhanh nhưng cơ chế giám sát không theo kịp, rủi ro hệ thống và sở hữu chéo có thể gia tăng”. Hai hướng cần xử lý song song: củng cố khung pháp lý giám sát conglomerate tài chính. Đồng thời xác định vai trò của mô hình này trong thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mở rộng tệp khách hàng và nâng cao chất lượng dịch vụ tài chính.

Các diễn giả tại phiên thảo luận.

Các diễn giả tại phiên thảo luận.

Trọng tâm không nằm ở hạn chế phát triển mà ở tạo môi trường phát triển bền vững và lành mạnh. Các ngân hàng đi đầu về chuyển đổi số, tài chính xanh, tín dụng xanh, quản lý quỹ, chứng khoán, bảo hiểm, nhưng cần bảo đảm hệ thống kiểm soát rủi ro và quản trị minh bạch tương xứng. “Mục tiêu lớn nhất là bảo đảm hệ thống tài chính hỗ trợ quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, thay vì đi trước quá xa rồi phát sinh rủi ro”, ông nêu quan điểm.

Cũng tại phiên thảo luận, theo các chuyên gia, mô hình tài chính phù hợp phải dựa trên trình độ phát triển của nền kinh tế thực. Việt Nam hiện vẫn dựa nhiều vào FDI và các sản phẩm tài chính xoay quanh bất động sản, ngân hàng, chứng khoán, nên nhu cầu hình thành các siêu tập đoàn tài chính kiểu Mỹ - Anh chưa thật sự rõ nét. Tuy vậy, xu hướng phát triển tập đoàn tài chính tại Việt Nam đang dần xuất hiện, đặc biệt ở các ngân hàng niêm yết với hệ sinh thái ngân hàng - bảo hiểm - chứng khoán - quản lý quỹ và sắp tới là tài sản số.

Theo các chuyên gia, mô hình này xuất phát từ nhu cầu thị trường: Khi cá nhân và doanh nghiệp phát triển, họ cần nhiều dịch vụ tài chính nâng cao, từ đầu tư, quản lý tài sản đến private banking. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất hiện nay là nguồn nhân lực chất lượng cao và hành lang pháp lý. Việt Nam thiếu khung pháp luật cho ngân hàng đầu tư - mắt xích giúp kết nối thị trường tiền tệ và thị trường vốn, chứng khoán hoá khoản vay dài hạn và đồng hành vốn với doanh nghiệp. Vì vậy, việc phát triển luật và mô hình ngân hàng đầu tư là bước cần thiết để hình thành các tập đoàn tài chính trong tương lai.

Diệu Linh
Bình luận