Giá dầu
Thống kê từ Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam (MXV), giá dầu thô hôm nay ghi nhận mức giảm phần trăm sâu nhất trong hai ngày giao dịch đầu tiên của bất kỳ năm nào trong hơn 3 thập kỷ, trong bối cảnh các nhà đầu tư lo lắng về nhu cầu nhiên liệu khi nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại và các trường hợp COVID-19 gia tăng ở Trung Quốc.
Các ca nhiễm Covid tăng vọt với số người thiệt hại gia tăng nhanh chóng tạo ra hiệu ứng tâm lý tiêu cực thúc đẩy sức bán trên thị trường dầu. Theo nguồn tin từ Reuters cho biết, gã khổng lồ dầu khí nhà nước Saudi Aramco có thể giảm giá bán chính thức (OSP) đối với loại dầu thô tiêu chuẩn xuất khẩu sang Châu Á với mức giảm khoảng 1,5 USD/thùng trong tháng Hai. Một phần là do sức ép từ sự chuyển hướng dòng chảy dầu từ Nga. Tuy nhiên, dòng chảy này cũng đang suy yếu trong tuần thứ 4 liên tiếp sang khu vực châu Á, do đó, đây đều là những tín hiệu cho thấy nhu cầu chậm lại đè nặng lên giá dầu.
Về nguồn cung, Bloomberg cho biết Saudi Arabia đã giữ xuất khẩu dầu ổn định vào tháng trước khi tiếp tục thực hiện thỏa thuận OPEC+ nhằm ổn định thị trường dầu thô thế giới, vận chuyển khoảng 7,21 triệu thùng mỗi ngày trong tháng 12, không thay đổi so với mức tháng 11. Trong khi đó, OPEC được dự đoán đã bơm 29 triệu thùng mỗi ngày trong tháng 12, tăng 120,000 thùng/ngày so với tháng 11. Nguồn cung không có dấu hiệu cắt giảm thêm, trong khi tiêu thụ khá yếu đã khiến cho thị trường dầu đối diện với áp lực giảm giá mạnh.
Bên cạnh cung cầu, yếu tố vĩ mô cũng góp phần gây sức ép tới giá dầu trong phiên tối. Viện Quản lý cung ứng (ISM) cho biết hôm thứ Tư rằng chỉ số quản trị mua hàng PMI sản xuất của Mỹ đã giảm xuống 48,4 vào tháng trước từ 49 vào tháng 11, cho thấy môi trường lãi suất cao đang làm suy yếu dần hoạt động sản xuất. Trong khi đó, dữ liệu lao động được phản ánh qua số cơ hội việc làm mới của JOLTs đạt mức 10,45 triệu trong tháng 11, cao hơn con số dự báo ở mức 10 triệu. Thị trường lao động vẫn tích cực, đang làm gia tăng lo ngại về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ tiếp tục tăng lãi suất cao hơn so với mục tiêu, gây ra rủi ro suy thoái.
Biên bản họp của Fed hồi tháng 12 được công bố vào đêm qua vẫn cho thấy lăng kính khá tiêu cực về tình hình lạm phát. Có 17 trong số 19 quan chức dự kiến lãi suất sẽ bằng hoặc trên 5,1% trong năm nay. Để so sánh, không một quan chức Fed nào trong tháng 9 có dự báo lãi suất trên 5% vào năm 2023. Dự báo mới nhất của Fed cũng cho thấy tỷ lệ thất nghiệp đạt 4,6% vào cuối năm nay, cao hơn nhiều so với mức 3,7% đưa ra trong tháng 11. Đây tiếp tục là các yếu tố kéo giá dầu suy yếu.
Rạng sáng nay, báo cáo của Viện Dầu khí Mỹ (API) cho thấy tồn kho dầu thô thương mại Mỹ trong tuần kết thúc ngày 30/12 đã tăng 3,3 triệu thùng, cao hơn so với dự báo của thị trường. Trong khi đó, tồn kho xăng tăng 1.2 triệu thùng, trái với mức dự đoán giảm. Dữ liệu này có thể tiếp tục khiến giá dầu gặp áp lực bán nhẹ trong phiên sáng.
Sắc đỏ tiếp tục áp đảo bảng giá kim loại phiên thứ hai liên tiếp. Với nhóm kim loại quý, giá bạc giảm 1,12% về 23,96 USD/ounce, còn giá bạch kim giảm nhẹ 0,12% về 1080,7 USD/ounce. Sức ép bán được duy trì ngay cả khi đồng USD suy yếu. Chỉ số Dollar Index giảm nhẹ về 104,25 điểm.
Biên bản cuộc họp tháng 12 của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được công bố hôm qua vẫn cho thấy các quan chức của Fed vẫn kiên định với việc thắt chặt chính sách tiền tệ, cho tới khi đạt được mục tiêu lạm phát giảm xuống còn 2% một cách bền vững. Hai rủi ro chính sách lớn nhất hiện tại là Fed không giữ lãi suất đủ cao và để lạm phát gia tăng, mặt khác nếu duy trì chính sách hạn chế quá lâu, nền kinh tế sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề. Tuy nhiên, các thành viên cho biết họ thấy rủi ro lớn hơn khi nới lỏng quá sớm và để lạm phát gia tăng.
Giá kim loại giảm
Với nhóm kim loại cơ bản, giá đồng đóng cửa thấp hơn 0,69% về 3,74 USD/pound, giảm phiên thứ sáu liên tiếp. Giá quặng sắt giảm 0,93% về 116,05 USD/tấn. Số ca nhiễm Covid-19 không ngừng gia tăng ở Trung Quốc đã làm gia tăng lo lắng về nhu cầu tiêu thụ kim loại, vốn đã chịu áp lực từ hoạt động công nghiệp toàn cầu suy yếu. Bên cạnh đó, kỳ nghỉ Tết Nguyên đán của Trung Quốc vào cuối tháng này cũng đang là một sức ép lên giá khi các hoạt động sản xuất đình trệ vì các nhà máy đóng cửa trong nhiều tuần.
Những rủi ro trong ngắn hạn đang làm lu mờ những động thái hỗ trợ thị trường của Chính phủ Trung Quốc. Các nhà chức trách đang có kế hoạch gia tăng các biện pháp hỗ trợ để giảm bớt căng thẳng thanh khoản cho thị trường bất động sản. Tuy nhiên, sẽ mất nhiều thời gian để các ngành kinh tế mũi nhọn và tiêu thụ nhiều kim loại như sản xuất và xây dựng phục hồi. Ngay cả với các biện pháp hỗ trợ mới nhất, doanh số bán nhà của Trung Quốc vẫn tiếp tục sụt giảm trong tháng 12, thấp 31% so với một năm trước đó, nhấn mạnh những thách thức trong việc ngăn chặn suy thoái trong bối cảnh dịch Covid bùng phát tràn lan.
Việt Nam hưởng lợi từ nhập khẩu sắt thép
Theo MXV, thị trường sắt thép thế giới đã bước vào giai đoạn phục hồi trong khoảng 2 tháng trở lại đây, với kỳ vọng nhu cầu sẽ có sự cải thiện, đặc biệt là các khu vực như Trung Quốc và Ấn Độ. Tuy nhiên, nhịp tăng của giá sắt thép đang có phần chững lại, trong bối cảnh gián đoạn vì dịch bệnh Covid-19 bùng phát ở Trung Quốc đang cản trở sức tiêu thụ. Tuy nhiên, MXV nhận định, đà tăng mạnh sẽ nhiều khả năng sẽ sớm quay trở lại khi quốc gia tiêu thụ chính là Trung Quốc thoát khỏi đỉnh dịch và tập trung vào phục hồi tăng trưởng.
Do đó, trong giai đoạn này, Việt Nam vẫn đang được hưởng lợi từ việc nhập khẩu sắt thép. Bên cạnh đó, đây cũng là giai đoạn mà nhiều dự án gấp rút hoàn thành tiến độ, thúc đẩy nhu cầu sắt thép. Thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam cho thấy, trong 15 ngày đầu tháng 12 vừa qua, nước ta đã nhập khẩu 546,9 nghìn tấn sắt thép các loại, tương đương kim ngạch 475,9 triệu USD. Trong khi đó, tổng lượng xuất khẩu chỉ đạt 334,5 nghìn tấn, trị giá 222,1 triệu USD. Cận kề Tết Nguyên Đán, nhiều doanh nghiệp sản xuất cũng có xu hướng tích trữ hàng phục vụ cho hoạt động tại các nhà máy. Với đà phục hồi dần của thị trường sắt thép trên thế giới, các doanh nghiệp nội địa cũng cần phải nâng cao chất lượng và vị thế cạnh tranh trên cả thị trường nội địa và thương mại quốc tế.
Giá một số hàng hóa khác
Bảng giá nông sản
BẢNG GIÁ NÔNG SẢN KẾT THÚC NGÀY GIAO DỊCH 04/01/2023 |
Lúa mỳ Kansas Tháng 03/23 -3.28% 840.75 USD/Bushels Ngô Tháng 03/23 -2.5% 653.75 USD/Bushels Dầu Đậu Tương Tháng 01/23 -0.08% 63.11 USD/lbs Khô Đậu Tương Tháng 01/23 1.2% 482.5 USD/Tons Gạo thô Tháng 01/23 -3.18% 17.5 USD/lbs Đậu Tương Tháng 01/23 -0.61% 1478.25 USD/Bushels Lúa Mỳ Chicago Tháng 03/23 -3.87% 745.5 USD/Bushels |
Bảng giá kim loại
BẢNG GIÁ KIM LOẠI KẾT THÚC NGÀY GIAO DỊCH 04/01/2023 |
Đồng Tháng 01/23 -0.7% 3.7395 USD/lbs Quặng sắt Tháng 01/23 -0.93% 116.05 USD/Tonnes Bạch kim Tháng 01/23 -0.12% 1080.7 USD/Troy ounces Bạc Tháng 01/23 -1.11% 23.792 USD/Troy ounces Nhôm LME Tháng -1.93% 2266.5 USD/Tonnes Đồng LME Tháng -0.84% 8252 USD/Tonnes Chì LME Tháng -0.53% 2268 USD/Tonnes Nickel LME Tháng -4.34% 29768 USD/Tonnes Thiếc LME Tháng -1.48% 25095 USD/Tonnes Kẽm LME Tháng -0.33% 2992 USD/Tonnes |
Bảng giá nguyên liệu công nghiệp
BẢNG GIÁ NGUYÊN LIỆU CÔNG NGHIỆP KẾT THÚC NGÀY GIAO DỊCH 04/01/2023 |
Ca cao Tháng 03/23 1.21% 2603 USD/Tonnes Bông sợi Tháng 03/23 -3.25% 80.44 USD/lbs Cà phê Arabica Tháng 03/23 -3.01% 161.3 USD/pounds Cà phê Robusta Tháng 01/23 -0.67% 1913 USD/Tonnes Dầu cọ thô Tháng 01/23 -1.29% 4210 MYR/metrics Tons Đường trắng Tháng 03/23 -0.8% 543.1 USD/Tonnes Đường 11 Tháng 03/23 -0.81% 19.54 USD/Pounds Cao su RSS3 Tháng 01/23 2.75% 209.4 JPY/kg Cao su TSR20 Tháng 02/23 0.75% 133.5 USD/Tonnes |