Điện về sáng bản vùng cao
Những ngày cuối năm, bước chân đến các xã Cao Minh, Bằng Thành hay Nghiên Loan (tỉnh Thái Nguyên), dễ dàng bắt gặp niềm vui lan trong ánh mắt bà con khi những đường dây mới được đấu nối, những công tơ đầu tiên sáng đèn trong những căn nhà gỗ lâu nay chỉ quen với ngọn đèn dầu leo lét. Đội Quản lý điện lực khu vực Pác Nặm tranh thủ thời tiết thuận lợi để phối hợp cùng chính quyền địa phương đấu nối thiết bị, kéo điện đến những thôn, nhóm hộ cuối cùng chưa có điện. Niềm mong mỏi của đồng bào nay chạm thành hiện thực.

Nhân viên ngành điện đóng điện trạm biến áp phục vụ người dân thôn Phia Bay, xã Cao Minh
Trong căn nhà nhỏ ở thôn Phia Bay, chị Lý Thị Hoa không giấu được sự phấn khởi. Chị kể, trước đây, mỗi tối gia đình chỉ dùng đèn dầu, con trẻ học hành bị hạn chế đủ bề. Dù đã tự mua dây kéo điện từ thôn khác về dùng nhưng đường dây hơn hai cây số khiến điện luôn yếu, chỉ thắp sáng được buổi tối. Giờ điện được Nhà nước đầu tư kéo đến tận nhà, chị nói “gia đình rất phấn khởi”, bởi điều mà nhiều năm chỉ dám ước nay đã thành thật.
Cũng tại Phia Bay, Trưởng thôn Dương Văn Páo chia sẻ, toàn thôn có 42 hộ dân, đều là đồng bào Mông, sinh sống rải rác trên địa hình rộng và dốc. Lần đầu lắp điện lưới, 36 hộ được cấp công tơ, còn 6 hộ mới tách ở xa trạm hạ thế đành tự kéo dây. Kinh tế thôn chủ yếu dựa vào nông, lâm nghiệp nên cuộc sống luôn khó khăn, chưa có điện cũng khiến nhiều tiêu chí đánh giá hộ nghèo bị thiếu hụt. Ông hy vọng điện đến từng nhà sẽ mở đường cho sản xuất thuận lợi hơn, để bà con sớm vươn lên thoát nghèo.
Từ khi ánh sáng điện lưới bừng lên giữa các bản làng, diện mạo đổi thay rõ rệt. Những ngôi nhà gỗ truyền thống nay sáng ánh điện mỗi đêm; tivi, quạt điện, nồi cơm điện, máy giặt, tủ lạnh…, những thiết bị từng chỉ thấy ở đồng bằng đã có mặt trong gian bếp vùng cao. Điện không chỉ thắp sáng mà còn thắp lên tiện nghi tối thiểu mà người dân từng chờ đợi rất lâu.
Điện về còn mở lối cho sản xuất. Trước kia, muốn xay thóc nghiền ngô, bà con phải đi cả cây số để thuê máy xay chạy dầu. Nay nhiều hộ mạnh dạn đầu tư máy xay xát nhỏ, máy bơm nước phục vụ nông nghiệp. Điện cũng tạo điều kiện để chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi; các mô hình chăn nuôi có bóng sưởi, quạt gió giúp chăm sóc con giống tốt hơn; một số nơi thử nghiệm trồng rau trái vụ trong nhà lưới có hệ thống chiếu sáng hỗ trợ.
Điện về, ánh sáng học tập của trẻ nhỏ cũng ngày một vẹn tròn hơn. Không còn những tối mắt cay xè bên ngọn đèn dầu, các em giờ có thể học dưới ánh sáng đủ đầy. Trường học có điện mở được lớp tin học, dùng máy chiếu, giúp học sinh tiếp cận cách dạy học hiện đại hơn.

Niềm vui của người dân thôn Lũng Pu, xã Hiệp Lực khi có điện lưới quốc gia
Chủ tịch UBND xã Cao Minh, ông Ma Văn Tuấn, cho biết, điện lưới quốc gia về đến thôn bản khiến “không chỉ lớp trẻ mà người già cũng thấy đời sống tinh thần cải thiện rõ rệt”, buổi tối có thể xem ca nhạc, nghe tin tức, tiếp cận với đời sống xã hội rộng mở hơn. Toàn xã hiện 33/33 thôn có điện, tỷ lệ hộ dùng điện đạt trên 91%, chỉ còn một số nhóm hộ ở vùng sâu cách xa trạm hạ thế nên chưa thể kéo điện.
Điện không chỉ dừng ở chiếu sáng mà là mở đầu cho những hy vọng đổi thay. Dẫu còn thách thức trong việc duy trì hệ thống để bảo đảm điện ổn định nơi địa hình phức tạp, niềm tin của đồng bào vẫn ngày một được củng cố. Đội trưởng Đội Quản lý điện lực khu vực Pác Nặm, ông Hoàng Đình Thảo, cho biết, thời gian qua đơn vị đã đóng điện cho các thôn: Nghiên Loan, Bằng Thành, Cao Minh, góp phần tăng số hộ sử dụng điện ổn định. Hiện ba xã có gần 7.200 hộ dùng điện, đạt gần 94%, còn hơn 480 hộ, nhóm hộ chưa có điện. Ngành điện đang phối hợp với Sở Công Thương để xây dựng phương án cấp điện cho các hộ này trong năm 2026.
Từ điện sáng về bản, những ngành nghề mới dần xuất hiện ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tạo việc làm, tăng thu nhập, giúp nhiều người có cơ hội “ly nông mà không ly hương”. Ánh sáng điện lưới, theo đó, không chỉ soi sáng đường vào bản mà còn soi đường cho khát vọng phát triển.
Đặc biệt chú trọng hoàn thiện hạ tầng năng lượng
Song song với việc đưa điện lưới đến từng vùng sâu vùng xa, tỉnh Thái Nguyên những năm gần đây đặc biệt chú trọng hoàn thiện hạ tầng năng lượng, lĩnh vực được xem như trụ cột then chốt để mở không gian phát triển kinh tế - xã hội sau sáp nhập đơn vị hành chính. Việc đẩy mạnh quy hoạch, đầu tư nguồn, lưới điện đã tạo nền tảng quan trọng cho công nghiệp, dịch vụ và dân sinh cùng tiến bước.

Người dân được hướng dẫn sử dụng điện
Hiện, phụ tải điện của tỉnh được cấp từ nhiều nguồn: hai nhà máy nhiệt điện công suất lắp đặt 230MW, bảy nhà máy thủy điện tổng công suất 24,6MW, cùng lượng điện đấu nối trực tiếp từ hệ thống điện miền Bắc và một phần điện mua từ Trung Quốc. Đây là nền tảng bảo đảm nguồn cung ổn định, phục vụ cho cả sản xuất công nghiệp lẫn nhu cầu dân sinh ngày càng tăng.
Hệ thống lưới điện của tỉnh được đầu tư theo hướng hiện đại và đồng bộ. Thái Nguyên hiện có hai tuyến đường dây 500kV dài hơn 17km; năm trạm biến áp và 11 tuyến đường dây 220kV với tổng chiều dài 330km; cùng 21 trạm biến áp 110kV có tổng công suất hơn 2.400MVA. Mạng lưới này liên kết chặt chẽ với các khu vực lân cận, nâng cao độ an toàn và tin cậy trong vận hành.
Trong năm 2025, Thái Nguyên đang triển khai 28 dự án lưới điện và nguồn điện. Bốn dự án đã hoàn thành, 12 dự án thi công đúng tiến độ, 12 dự án còn lại được tháo gỡ khó khăn về mặt bằng, thủ tục đất đai và quy hoạch. Song song với đó, nhiều dự án năng lượng tái tạo được nghiên cứu đầu tư như Nhà máy điện rác Thái Nguyên, điện gió Thiên Long Chợ Mới, điện mặt trời nổi hồ Núi Cốc và thủy điện Nặm Cắt. Đây là bước mở rộng quan trọng cho chiến lược phát triển năng lượng bền vững của tỉnh trong dài hạn.
Việc đầu tư đồng bộ hạ tầng không chỉ giúp bảo đảm an ninh điện năng mà còn tạo lực đẩy cho công nghiệp tăng tốc, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng đời sống người dân. Từ việc đưa điện lưới quốc gia về những bản làng xa nhất đến việc hoàn thiện hệ thống nguồn, lưới điện cấp tỉnh, Thái Nguyên đang dần hình thành một hệ sinh thái năng lượng hoàn chỉnh, tạo điểm tựa cho phát triển sau sáp nhập và mở ra những cơ hội mới cho các vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Ở những rẻo cao nơi ánh sáng mới vừa đến, hành trình phát triển vẫn còn dài phía trước, nhưng bản làng đã sáng đêm và đó là dấu mốc không thể thay đổi. Điện lưới quốc gia đã gieo vào từng căn nhà ngọn lửa của hy vọng, để từ ánh sáng ấy, đồng bào gây dựng tương lai ấm no hơn trên chính mảnh đất quê mình.







