Sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 Luật
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho biết, việc xây dựng dự án Luật nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 Luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường để thực hiện chủ trương và thực tế về sắp xếp tổ chức bộ máy; tổ chức chính quyền 2 cấp; phân quyền, phân cấp; đơn giản hóa thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh và giải quyết các “điểm nghẽn” do quy định của pháp luật, vấn đề cấp bách, phát sinh từ thực tiễn quản lý nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.

Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng.
Dự án Luật được bố cục 17 điều; sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 Luật gồm: Luật Bảo vệ môi trường; Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật; Luật Chăn nuôi; Luật Đa dạng sinh học; Luật Đê điều; Luật Đo đạc và Bản đồ; Luật Khí tượng thủy văn; Luật Lâm nghiệp; Luật Phòng, Chống thiên tai; Luật Tài nguyên nước; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; Luật Thú y; Luật Thủy lợi; Luật thủy sản; Luật Trồng trọt.
Dự án Luật gồm 3 nhóm chính sách lớn. Nhóm nội dung về sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính, phân quyền, phân định thẩm quyền khi tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp: Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung 67 Điều của 14 Luật để phân định 53 thẩm quyền của chính quyền địa phương 2 cấp; sửa đổi, bổ sung 112 Điều của 14 Luật để xử lý việc phân cấp, phân quyền đã được Chính phủ xử lý tạm thời tại Nghị định 131/2025/NĐ-CP, Nghị định số 136/2025/NĐ-CP.
Nhóm nội dung về cắt giảm, đơn giản hoá điều kiện đầu tư kinh doanh, thủ tục hành chính: Dự thảo Luật thực hiện sửa đổi, bổ sung 75 Điều tại 11 Luật để thực hiện phương án cắt giảm, đơn giản hóa các quy định, thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh thuộc phạm vi quản lý của Bộ Nông nghiệp và Môi trường theo Nghị quyết số 66/NQ-CP của Chính phủ và Quyết định số 1671/QĐ-TTg ngày 5/8/2025 của Thủ tướng Chính phủ. Dự án Luật bãi bỏ các điều kiện đầu tư kinh doanh được quy định tại 26 điều của 8 luật; bãi bỏ hoặc sửa đổi các thủ tục hành chính tại 49 Điều tại 9 Luật.
Nhóm nội dung “điểm nghẽn” do quy định pháp luật: Dự án Luật được xây dựng theo trình tự, thủ tục rút gọn, nên Chính phủ đã cân nhắc thận trọng theo các tiêu chí để xác định, chỉ tập trung sửa đổi, bổ sung 20 “điểm nghẽn” tại 9 luật cần xử lý ngay trong năm 2025, bao gồm xử lý 5 “điểm nghẽn” đã có ý kiến chỉ đạo của cấp có thẩm quyền và 15 “điểm nghẽn” đã chín, đã rõ và được nhiều địa phương phản ánh, kiến nghị cần xử lý ngay trong năm 2025.
Linh hoạt trong quản lý nhưng gắn trách nhiệm cụ thể
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thanh Hải cho hay, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến 3 nhóm nội dung về phân cấp, phân quyền trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.
Về cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh, thủ tục hành chính và giải quyết xử lý ngay được 20 điểm nghẽn do quy quy định của pháp luật trong 15 Luật nêu trên (trong đó 11 Luật thuộc lĩnh vực nông nghiệp và 4 Luật thuộc lĩnh vực môi trường), Ủy ban cơ bản nhất trí với các nội dung sửa đổi, bổ sung và có ý kiến đối với một số nội dung cụ thể.

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thanh Hải
Đối với Luật Chăn nuôi, Ủy ban đề nghị phân cấp mạnh cho địa phương về thẩm quyền cấp, cấp lại, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi (khoản 1 Điều 39) để phù hợp với điều kiện thực tế; bảo đảm phù hợp với Kết luận số 183-KL/TW của Bộ Chính trị.
Đối với Luật Thú y, Ủy ban đề nghị rà soát quy định về miễn công bố hợp quy trong lĩnh vực thú y (khoản 2 Điều 78) để bảo đảm linh hoạt trong quản lý nhưng vẫn gắn trách nhiệm cụ thể các cơ quan quản lý nhà nước trong kiểm soát chất lượng thuốc thú y trước khi lưu hành; làm rõ việc bãi bỏ thủ tục công bố hợp quy thuốc thú y thì có biện pháp thay thế nào để kiểm soát chất lượng thuốc sau lưu hành không, tác động thế nào lên việc kiểm soát chất lượng thuốc.
Đối với Luật Lâm nghiệp, đề nghị xem xét quy định tại khoản 2 Điều 19 về chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác bảo đảm phù hợp thực tế và tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật; thực hiện đúng Chỉ thị 13-CT/TW ngày 12/1/2017 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; đồng thời giải thích khái niệm “diện tích rừng” để xác định rõ các trạng thái rừng trong thực hiện.
Đối với Luật Tài nguyên nước, đề nghị làm rõ quy mô, nội dung của điều chỉnh cục bộ quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ chứa trong dự thảo Luật (Điều 38) khi giao thẩm quyền cho Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường quyết định phê duyệt điều chỉnh và báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả; trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và Môi trường và cơ chế phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc điều chỉnh cục bộ về vận hành cắt, giảm lũ cho hạ du hiện chưa được quy định trong dự thảo.
Đối với Luật Trồng trọt, đề nghị cân nhắc kỹ việc lược bỏ nội dung về tầng đất mặt của đất chuyên trồng lúa nước (khoản 10 Điều 9), nên giao Chính phủ hướng dẫn theo hướng giữ lại giá trị dinh dưỡng cho cây trồng, bảo vệ quỹ đất trồng lúa, an ninh lương thực quốc gia và chủ trương sử dụng linh hoạt một số diện tích đất trồng lúa cho mục đích khác nhưng không làm mất đi điều kiện cần thiết để trồng lúa trở lại.
Đối với Luật Đê điều, về sửa đổi, bổ sung phạm vi bảo vệ đê điều (khoản 2 Điều 23 Luật Đê điều), báo cáo thẩm tra nhận định việc quy định phạm vi bảo vệ đê điều như dự thảo Luật dẫn đến cách hiểu là căn cứ xác định khu đô thị, khu dân cư chỉ theo hiện có.
Đây là nội dung khá phức tạp, liên quan đến quá trình thực thi pháp luật về đê điều (từ năm 2007 đến nay), do đó Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề nghị giữ nguyên nội dung Điều 23 của Luật hiện hành và bổ sung nội dung giao Chính phủ quy định chi tiết để có cơ sở giải quyết các vấn đề bất cập trong thực tế.
Đối với Luật Bảo vệ môi trường (Điều 1 dự thảo Luật), Ủy ban đề nghị nghiên cứu thêm một số nội dung như: việc bỏ yếu tố “đất trồng lúa nước từ 2 vụ trở lên” và “yêu cầu di dân, tái định cư” ra khỏi yếu tố nhạy cảm so với quy định hiện hành khi sửa đổi, bổ sung điểm c khoản 1 Điều 28 là chưa phù hợp thực tiễn.
Ngoài ra, chỉnh sửa quy định về việc “báo cáo đánh giá tác động môi trường của phân kỳ sau, phải đánh giá tổng hợp tác động đến môi trường của cả các phân kỳ trước đó của dự án” cho phù hợp với việc thực hiện các dự án đầu tư theo Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công; rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 7 Điều 79 Luật Bảo vệ môi trường điều chỉnh lộ trình, thời gian áp dụng đối với các chính sách liên quan đến quản lý chất thải rắn sinh hoạt cho phù hợp với yêu cầu thực tế.
Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường nhận thấy, hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường được chuẩn bị công phu, đáp ứng yêu cầu thực hiện theo trình tự, thủ tục rút gọn. Nếu được Quốc hội thông qua dự án Luật ngay tại Kỳ họp thứ 10 thì thời gian đến khi Luật có hiệu lực thi hành (dự kiến ngày 1/1/2026) còn rất ngắn, do vậy, đề nghị Chính phủ chỉ đạo Cơ quan chủ trì soạn thảo và các cơ quan liên quan khẩn trương xây dựng các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành Luật để ban hành kịp thời, bảo đảm tính khả thi khi áp dụng pháp luật.







