Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát
Chiều 24/12, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua 3 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân về: Hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội; hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật; hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND).

Phó Chủ nhiệm Thường trực Uỷ ban Dân nguyện và Giám sát Lê Thị Nga
Phó Chủ nhiệm Thường trực Uỷ ban Dân nguyện và Giám sát Lê Thị Nga cho biết, việc ban hành các Nghị quyết nhằm quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Hoạt động giám sát năm 2025 về trình tự, thủ tục, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tổ chức thực hiện hoạt động giám sát của Quốc hội, HĐND, giám sát văn bản quy phạm pháp luật; đối tượng giám sát chuyên đề, giám sát việc giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri của Đoàn đại biểu Quốc hội; đối tượng chịu sự giám sát của HĐND; chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động giám sát; công tác phục vụ hoạt động giám sát.
Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hoá đầy đủ, kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND; về phân cấp, phân quyền trong hoạt động giám sát theo hướng “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”.
Tạo lập cơ sở pháp lý đầy đủ, cụ thể nhằm bảo đảm sự thống nhất, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, HĐND, trong hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật; góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng nêu, Ủy ban tán thành với sự cần thiết ban hành các Nghị quyết với lý do nêu tại các Tờ trình của Ủy ban Dân nguyện và Giám sát. Nội dung của các dự thảo Nghị quyết về cơ bản phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng; bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật.
Đa số ý kiến trong Ủy ban tán thành với đề nghị của Cơ quan trình về ban hành các Nghị quyết theo trình tự, thủ tục rút gọn; hồ sơ 2 dự án Nghị quyết cơ bản bảo đảm các thành phần tài liệu, đủ điều kiện trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua.
Làm rõ tiêu chí lựa chọn nhóm vấn đề chất vấn
Về dự án Nghị quyết quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Hoạt động giám sát năm 2025 về hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Pháp luật và Tư pháp đề nghị xác định cụ thể các hoạt động giám sát thuộc phạm vi điều chỉnh của dự thảo Nghị quyết thay vì chỉ viện dẫn các điều có liên quan của Luật Hoạt động giám sát năm 2025; đồng thời, tiếp tục rà soát để bảo đảm Nghị quyết quy định chi tiết đầy đủ các nội dung được giao theo quy định của Luật Hoạt động giám sát năm 2025.

Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng
Về chương trình giám sát (Chương II), Ủy ban đề nghị nghiên cứu, điều chỉnh mốc thời gian chậm nhất Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội gửi báo cáo về kết quả thực hiện nội dung trong chương trình giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sớm hơn hoặc tăng thêm thời gian gửi đề xuất nội dung đưa vào chương trình giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội để hợp lý hơn, bảo đảm kết quả thực hiện chương trình giám sát được hoàn thành trước, làm cơ sở đề xuất nội dung đưa vào chương trình giám sát.
Đề nghị rà soát một số nội dung của dự thảo Nghị quyết để quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể hơn, tránh chỉ quy định lại hoặc quy định chưa thực sự thống nhất với Luật Hoạt động giám sát năm 2025, như: Quy định về việc điều chỉnh chương trình giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã được quy định tại một số điều của Luật Hoạt động giám sát năm 2025.
Quy định về việc lấy ý kiến các cơ quan có liên quan, trách nhiệm báo cáo của Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội về chương trình giám sát của mình, việc báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc điều chỉnh chương trình giám sát của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội còn chưa thực sự thống nhất với Luật Hoạt động giám sát năm 2025…
Về thực hiện các hoạt động giám sát (Chương III), ông Hoàng Thanh Tùng nêu rõ, về hoạt động xem xét báo cáo, Ủy ban đề nghị làm rõ để quy định cụ thể hơn một số nội dung liên quan đến việc xem xét, thảo luận các báo cáo như sau: Thời điểm Quốc hội giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét các báo cáo; trường hợp nào Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra nghị quyết, trường hợp nào Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra kết luận về việc xem xét báo cáo; nghị quyết, kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội có được báo cáo Quốc hội không.
Riêng đối với báo cáo công tác nhiệm kỳ của Chủ tịch nước; báo cáo công tác hàng năm, công tác nhiệm kỳ của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội (điểm c khoản 1 Điều 16) thì khoản 2 Điều 16 không quy định Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét các báo cáo này, như vậy có phù hợp với thực tiễn không và theo đó đề nghị làm rõ Quốc hội có thảo luận các báo cáo này và báo cáo công tác hằng năm, công tác nhiệm kỳ của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hay không?.
Về tiêu chí lựa chọn nhóm vấn đề chất vấn, tiêu chí lựa chọn vấn đề giải trình, tiêu chí lựa chọn chuyên đề giám sát, Ủy ban Pháp luật và Tư pháp đề nghị làm rõ hơn một số nội dung sau: Xác định tiêu chí nào là bắt buộc, tiêu chí nào được lựa chọn; làm rõ việc áp dụng các tiêu chí được thực hiện vào thời điểm nào trong quá trình xây dựng chương trình giám sát hằng năm của các chủ thể; thể hiện rõ hơn phạm vi, mức độ cấp thiết, tầm ảnh hưởng của tiêu chí gắn với từng chủ thể/hoạt động giám sát để phù hợp với thẩm quyền giám sát của chủ thể, tính chất riêng của từng hoạt động giám sát…
Về dự án Nghị quyết quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Hoạt động giám sát năm 2025 về giám sát văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), Ủy ban Pháp luật và Tư pháp đề nghị bổ sung đầy đủ đối tượng VBQPPL được giám sát ở từng điều, khoản cụ thể trong dự thảo Nghị quyết để bảo đảm thống nhất, chặt chẽ; bổ sung cơ chế giám sát đối với VBQPPL thuộc bí mật nhà nước; bổ sung yêu cầu và trách nhiệm về ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số để bảo đảm liên thông dữ liệu và nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát VBQPPL.
Về mục đích và nội dung giám sát VBQPPL (Điều 4 và Điều 5), đề nghị cân nhắc kỹ lưỡng sự phù hợp của mục đích giám sát quy định tại khoản 2 Điều 4 là nhằm phát hiện: “văn bản có quy định có thể bị lợi dụng để tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ ....” vì không tương thích với nội dung giám sát VBQPPL nêu tại Điều 5; các điều, khoản cụ thể trong dự thảo Nghị quyết chưa có cơ chế thực hiện để đáp ứng mục đích này.
Mặc dù mục tiêu nêu trên là rất quan trọng và thiết thực nhưng phải gắn với các hoạt động giám sát chuyên sâu hơn, tập trung vào việc tổ chức thực thi pháp luật của đối tượng chịu sự giám sát.
Về việc xử lý VBQPPL trái với Hiến pháp, pháp luật, Ủy ban đề nghị xem xét thận trọng, toàn diện hơn nội dung này để bảo đảm tính khả thi và tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, vì Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước không đặt ra yêu cầu bồi thường đối với hành vi sai phạm trong ban hành VBQPPL.
Đề nghị làm rõ cơ chế xử lý đối với VBQPPL chưa đúng về trình tự, thủ tục quy định tại một số điều, khoản của dự thảo Nghị quyết để bảo đảm đồng bộ với Nghị định số 79 xác định loại văn bản này là trái pháp luật. Đồng thời, cần chỉnh lý thẩm quyền xử lý kết quả giám sát VBQPPL tại một số điều, khoản để bảo đảm thống nhất với Luật Ban hành VBQPPL về chủ thể có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, tạm ngưng hiệu lực, đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản.
Tại Phiên họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiến hành biểu quyết thông qua về nguyên tắc Nghị quyết Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân về hoạt động giám sát của Quốc hội, với 100% đại biểu có mặt tán thành. Nghị quyết Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân về hoạt động giám sát của Quốc hội có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/3/2026.
Về hoạt động giải trình tại phiên họp Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Ủy ban Pháp luật và Tư pháp đề nghị chỉnh lý quy định “Người giải trình có trách nhiệm trả lời trực tiếp, đầy đủ vấn đề được yêu cầu; không được ủy quyền cho người khác trả lời thay” để phù hợp với khoản 3 Điều 7 của Luật Hoạt động giám sát năm 2025 (chủ thể giám sát có thể ủy quyền cho cấp phó của mình nếu được sự đồng ý của chủ thể giám sát).





