Cô Vàng Thị Mai tham dự Hội chợ VietCraft 2015 |
Với mức thu nhập 2 - 3 triệu đồng/tháng từ trồng cây lanh cao hơn rất nhiều lần so với mức thu nhập 60.000 đồng/tháng từ trồng ngô, giúp cuộc sống của phụ nữ dân tộc Mông nơi đây bớt nhọc nhằn.
Hợp tác xã cho phụ nữ nghèo
Thôn Hợp Tiến, xã Lùng Tám (Quản Bạ) có truyền thống lâu đời về dệt lanh, toàn thôn có 321 hộ thì gần như nhà nào cũng có khung dệt. Hợp tác xã (HTX) dệt lanh Hợp Tiến được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2001, với mục tiêu thu hút phụ nữ dân tộc thiểu số, phụ nữ làm chủ hộ là thành viên của HTX nhằm đào tạo nghề, giúp họ có thu nhập và có mức sống tốt hơn. Khởi điểm ban đầu thành lập chỉ có 6 xã viên đến nay đã có 130 xã viên với 9 tổ sản xuất. Tham gia sản xuất các xã viên có mức thu nhập 2 - 3 triệu đồng/tháng, cao hơn nhiều lần so với trước đây trồng ngô. Hơn 10 năm hoạt động, HTX đã góp phần giải quyết nhiều việc làm tại chỗ cho người dân cũng như tôn tạo, phát huy các bản sắc trong trang phục của người Mông. Đến nay, tỷ lệ hộ nghèo tại xã Lùng Tám đã giảm đáng kể so với những năm trước đây.
Giải đáp thắc mắc vì sao sản phẩm vải lanh Lùng Tám lại được nhiều khách quốc tế biết đến, cô Vàng Thị Mai, Chủ nhiệm HTX dệt lanh Hợp Tiến cho biết: Do có sự khác biệt cả về hình dáng lẫn gu thẩm mỹ về màu sắc giữa người dân tộc Mông với khách du lịch nước ngoài nên HTX đã nghiên cứu cho phù hợp với thị hiếu của khách du lịch. Ví dụ, người châu Âu thích màu trầm, màu tự nhiên, không được đậm, những bộ quần áo may cho khách du lịch nước ngoài cũng được làm dài rộng hơn. Bên cạnh đó, khi khách nước ngoài đến du lịch tại địa phương, du khách sẽ được xem thậm chí được thử làm tất cả các công đoạn để có thể tạo ra được một tấm vải lanh Lùng Tám. Từ việc cỏ cây lanh sau khi tước sợi, sẽ tiến hành nối sợi, quay sợi, nấu sợi trắng rồi dệt vải rồi nhuộm đủ các màu, sau đó thiết kế ra các họa tiết hoa văn. Việc giới thiệu cặn kẽ với khách hàng giúp cho khách hàng có thể hiểu, yêu thích, quý và rất tôn trọng bản sắc văn hóa của người dân tộc Mông, tinh hoa văn hóa của người Việt Nam. Từ đó, họ giới thiệu cho nhau tự đưa đến và tìm đến lanh Lùng Tám.
Khó khăn vẫn ở nguồn vốn
Tuy nhiên, theo cô Mai, khó của các làng nghề trong bối cảnh hội nhập khó một thì làng nghề Lùng Tám nơi vùng cao biên giới khó khăn gấp bội phần. Hầu hết các nghề truyền thống ở địa phương có quy mô sản xuất nhỏ lẻ, dụng cụ lạc hậu, trong khi người làm nghề thiếu vốn để đầu tư đổi mới thiết bị. Chính vì vậy mà năng suất, chất lượng sản phẩm thấp, mẫu mã đơn điệu, giá thành lại cao nên không đủ sức cạnh tranh. Đặc biệt, về nguyên vật liệu sản xuất và các dịch vụ phục vụ phát triển làng nghề không ổn định. Bên cạnh đó, với tập quán sản xuất cũ nên hoạt động của làng nghề chủ yếu ở quy mô hộ gia đình, không gian chật chội... Để mở rộng quy mô sản xuất, HTX đã được huyện cấp đất để xây dựng nhà xưởng. Tuy nhiên, có đất nhưng không có vốn, không có tiền để xây dựng.
Trong thời gian tới, HTX cố gắng duy trì và phát huy nghề truyền thống để nhân rộng, tạo điều kiện để sản phẩm được nhiều người biết đến. Nếu nghề dệt lanh được công nhận là làng nghề thì sẽ mở ra cho những nghệ nhân và các xã viên HTX mở rộng sản xuất, tạo nhiều công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân.