Hơn cả bạc vàng

Hơn cả bạc vàng

“Hơn cả bạc vàng” là nhan đề bài viết của tác giả, nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, trân trọng kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Trong gian nhà được coi là gian nhà thờ của đại gia đình, nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn còn lưu giữ một chiếc cân tiểu ly nhà nghề khi xưa mà cụ hàng coi là một thứ kỷ vật giàu ý nghĩa.

Dường như cụ muốn nhắc nhủ các cháu con hãy luôn giữ một tấm lòng ngay thẳng, trung thực trong nghề nghiệp cũng như trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày. Chữ "Tín" trong nghề vàng bạc mới là chữ đáng coi trọng nhất.

undefined
Hà Nội bảo tồn nghề vàng bạc

Thoạt nhìn, đôi vợ chồng người thợ kim hoàn Tân - Dung ở nhà số 10 phố Hàng Bạc nom có vẻ như không cân xứng tuổi tác. Khách vào nhà, có người gọi vợ là chị mà lại gọi chồng là bác. Nhưng rồi có sao, ba mươi năm qua họ vẫn chung sống thuận hoà, ấm êm bên nhau, sinh con, nở cháu, làm ăn phát đạt, tấn tới.

Người góp công đầu tác thành nên đôi, nên lứa cho anh và chị chẳng phải đâu xa. Đó chính là ông thầy dạy nghề của anh. Và ông cũng chính là bố đẻ của chị. Ông là nghệ nhân kim hoàn Nguyễn Văn Mẫn. Cái lý mà ông kén rể khi xưa, thật rất giản dị:

- Anh ấy tuy hơi lớn tuổi, song người thật thà, trung hậu, lại giỏi tay nghề nhất trong số thợ cùng lứa. Bởi vậy, không những con mà cha mẹ và các em cũng có thể nhờ cậy. Cha chỉ luôn mong điều tốt cho các con. Trong cuộc đời làm nghề bao năm, chẳng những anh chị Tân

- Dung đã học được ở người cha, người thấy của mình những kỹ xảo của nghề kim hoàn, mà còn học được ở ông những phẩm cách cao quý của người thợ chân chính, cũng như trách nhiệm và bồn phận nhất thiết của một con người trong gia đình và ngoài xã hội.

Bà Nguyễn Thị Hạnh, con gái phố Hàng Mắm làm dầu phố Hàng Bạc là một trong những người hàng xóm đồng thời là khách hàng của hiệu vàng Tân Dung rất tín nhiệm tay nghề và phong cách giao tiếp của ông chủ:

- Ông Tân làm hàng rất khéo, vào diện thợ cao tay nghề ở phố Hàng Bạc này. Ông ăn nói lại rất nhỏ nhẹ, từ tốn, khiêm nhượng. Ai ai cũng yêu quý, tín nhiệm. Nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn vốn quê gốc ở làng nghề chạm bạc Đồng Xâm, Thái Bình. Song gia đình ông đã sinh sống và lập nghiệp gần nửa thế kỷ trên đất Hà Nội, tại chính dãy phố Thịnh Yên này. Vào những năm dưới chế độ bao cấp đầy gian nan, khó khăn, nhà nước quản lý ngặt nghèo, biết bao thợ kim hoàn đã phải bỏ nghề. Song ông thì như một số đồng nghiệp giàu tâm huyết, vẫn âm thầm, đau đáu giữ nghề. Ông còn hơn người là ở chỗ, đã kiên nhẫn, bền bỉ truyền nghề cho tất cả tám đứa con trai gái trong nhà, bất chấp bao khúc thăng trầm thế sự. "Hoàng thiên bất phụ hảo nhân tâm" - Ông trời chẳng phụ người có lòng, đến bây giờ, chẳng có gia đình thợ kim hoàn nào ở Hà Nội được như ông, cả tám người con đều đã phương trưởng và hiện đang làm chủ tám cửa hiệu kim hoàn lớn nhỏ trên các phố.

Ở tuổi ngoại tám mươi, nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn đã từ lâu rời xa chiếc bàn nghề xưa cũ. Nhưng lâu lâu, ông vẫn giữ thói quen đi lại thăm thú lần lượt các cửa hiệu vàng của tám người con. Ông thường đi bộ, nói là để rèn luyện cho khoẻ đôi chân. Nơi mà ông thường đến thăm nhiều nhất là cửa hiệu vàng mang tên Đức Hạnh, nằm trên phố Nguyễn Công Trứ, rất gần với khu chợ Thịnh Yên. Đó là cửa hiệu được khách nhất trong số tám cửa hiệu của gia đình. Mái tóc bạc phơ của nghệ nhân nghiêng ngiêng bên chiếc tủ hàng ngồn ngộn, lóng lánh, đỏ rực những dây chuyền, hoa hột, nhẫn vòng theo đủ các kiểu dáng cổ điển hay hiện đại. Đôi mắt già nua nhưng hãy còn khá tinh tường đang xem xét, phẩm bình chiếc lắc vàng mười vừa kịp rời ngọn lửa đèn nghề trong tay cậu thợ trẻ. Chỉ cần quan sát gương mặt của cha và độ giãn nở của đôi lông mày bạc trắng, là cô con gái yêu Nguyễn Thị Hạnh đã có thể hiểu được mức độ hoàn mỹ của một sản phẩm mới:

- Cha tôi rất nghiêm khắc, rất cẩn thận. Hàng vàng bạc quý giá lại cần được chế tác tỉ mỉ, tinh tế. Sai lệch tý ty thôi cụ cũng bắt làm lại. Kỳ bao giờ được như ý mới thôi. Khách hàng hài lòng là ở chỗ đó.

Tất cả các cửa hiệu kim hoàn của các con, ông đều chọn lấy chữ Đức đặt làm đầu. Đức Hạnh, Đức Thành, Đức Thịnh... ý là để khuyên nhủ các con giữ lấy chữ đức làm gốc là trước nhất. Bà chủ hiệu vàng Đức Thịnh và khách sạn Đức Thịnh trên phố Mai Hắc Đế chính là một trong số sáu cô con gái của nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn. Chị Nguyễn Thị Phương kinh doanh ổn định, chắc chắn, nhà cửa khang trang, đàng hoàng, con cái ngoan ngoãn, học hành tấn tới. Chị coi đó là nguồn hạnh phúc to lớn không dễ có. "Uống nước nhớ nguồn", mang nặng tấm lòng tri ân với cha mẹ, với quê hương, bản quán, với nghề tổ cha ông, chị thường không quên việc thăm nom, giúp đỡ gia đình, họ hàng và thường dành những khoản tiền đáng kể để đóng góp công đức cho các di tích văn hoa, lịch sử và các hoạt động nhân đạo xã hội. Ngay từ những năm chín mươi của thế kỷ trước, chị đã là một trong những người đầu tiên tham gia vào chương trình Địa chỉ cho những tấm lòng từ thiện của Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội và là một trong những hội viên tích cực của Hội Tán trợ chữ thập đỏ phường Bùi Thị Xuân, quận Hai Bà Trưng. Mỗi năm, tuy không nhiều, nhưng gia đình chị cũng dành dăm ba triệu đồng cho các việc công đức, từ thiện. Noi gương mẹ, cô con gái đầu lòng đang học lớp 11 Trường trung học phổ thông Trần Phú của chị mỗi tháng cũng đã dành vài ba chục ngàn đồng tiền tiết kiệm để giúp đỡ bạn nghèo trong lớp mua sách vở.

Ngày đầu xuân năm mới, nơi mà bà chủ hiệu vàng Đức Thịnh chọn đến thăm và tặng quả từ thiện chính là nhà nuôi trẻ mô côi của quận Hai Bà Trưng, Mi ăn liền, bánh kẹo, sách vở và tiền mặt. Những món quà bé nhỏ nhưng thắm đượm nghĩa tình lá lành đùm lá rách. Bác sĩ Nguyễn Kim Chung, Phó chủ tịch Hội chữ thập đỏ Hà Nội luôn bày tỏ sự khuyến khích, động viên những gia đình như vậy:

- Cha mẹ làm việc từ thiện thường xuyên thì quá tốt rồi. Nhưng gieo mầm thiện cho cháu con theo được lâu bên mới là điều đáng quý. Ước sao thủ đô mình ngày một có thêm những gia đình thiện nguyện nhiệt tâm như thế.

Cuộc sống hằng ngày không phải bao giờ cũng dễ dàng, trôi chảy. Trong nhà, chồng bát cũng có khi xô. Nhưng cái chính là luôn phải giữ cho gia đình, và nhất là cho cha mẹ già một không khí nhẹ nhõm, thoải mái. Một bát cháo nóng, một ấm trà ngon, nhà nào mà không sẵn. Nhưng "miếng trầu không nặng, nặng hai tay bưng". Người con dâu của cụ Mẫn rất thấu hiểu điều này. Xưa kia, người Hà Nội từng có ấn tượng không hay với thành ngữ: "dân chợ Trời". Nhưng ở đâu cũng vậy, và thời nào cũng vậy, một nếp nhà vững chãi, luôn là chỗ dựa tinh thần cho tất thảy các thành viên trong gia đình. Càng trong những hoàn cảnh bất lợi, thì những phẩm chất tốt đẹp càng thêm tỏả rạng. Làm dâu trưởng trong một gia đình đông anh em chồng mà bao năm không hề có chuyện xô sát, điều tiếng ầm ĩ, phải chăng chỉ do từ một phía? Người con dâu cụ Mẫn là Nguyễn Thị Giới đã chia sẻ một cách giản dị:

- Tôi may mắn được làm dâu trong một gia đình nề nếp, các em cũng đều là người dễ dãi, biết điều, nên gia đình khi nào cũng giữ được bầu không khí thân mật và thoải mái. Chứ thật thà mà nói thì tôi cũng không được khéo léo đảm đang như nhiều người đầu.

Còn ông cụ bố chông thì lúc vắng mặt, vẫn khen cô con dâu:

- Chị ấy đã được ông bà nhạc dạy dỗ cẩn thận. Ăn ở cũng mộc mạc, chân tình. Bởi thế mà từ khi chị ấy về làm dâu cho đến nay đã hơn hai chục năm mà chưa hề phải nghe tôi và bà nhà tôi nói nặng một lời.

Giờ đây, chợ Hoa Bình đã khác xa chợ Trời xưa. Việc kinh doanh, buôn bán tự do, đường hoàng theo cơ chế kinh tế đổi mới đã khiến cho nếp giao tiếp, ứng xử của người dân nơi đây ngày một hòà đồng với cả xã hội. Vả lại, quan niệm chung của xã hội về nghề buôn bán, thương mại cũng không còn hẹp hòi và một chiều như trước. Gia đình nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn cũng là một trong số các gia đình gương mẫu đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa nhiều năm liên tục của khu vực dân cư phố Thịnh Yên.

Trong gian nhà được coi là gian nhà thờ của đại gia đình, nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn còn lưu giữ một chiếc cân tiểu ly nhà nghề khi xưa mà cụ hằng coi là một thứ kỷ vật giàu ý nghĩa. Dường như cụ muốn nhắc nhủ các cháu con hãy luôn giữ một tấm lòng ngay thẳng, trung thực trong nghề nghiệp cũng như trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày. Chữ "Tín" trong nghề vàng bạc mới là chữ đáng coi trọng nhất.

Trong cửa hiệu nhà dưới, bà khách hàng quen người bên phố Huế đang ngắm nghía mấy mẫu kiềng vàng, lắc vàng tươi cười vui vẻ:

- Tôi buôn bán nhỏ. Cứ chắt bóp được ít tiền là lại ra hàng cụ mua một vài chỉ vàng cất đi dành dụm. Bây giờ lại mua của con trai con dâu cụ. Cân lượng đầy đủ chả bao giờ phải lo nghĩ. Hôm nay tôi đang định đặt bộ vòng kiềng với lắc tay để sang tháng cho con gái đi lấy chồng. Mấy mẫu đều đẹp, đâm ra hơi khó chọn,

Lứa cháu chắt của cụ giờ đây cũng không hoàn toàn theo nghề cha ông. Chúng cũng có những ước mơ mới và những sự lựa chọn mới. Những kỷ vật của ông bà, chúng có thể coi như là trong những câu chuyện cổ tích. Nhưng mà có rất nhiều thứ trong ngôi nhà này vẫn luôn hấp dẫn và thu hút chúng, cho tới tận mai sau. Phải chăng, đó cũng chính là những bảo vật vô hình mà có thể, còn quý giá hơn cả bạc vàng? Cô cháu ngoại của cụ Mẫn tên là Nguyễn Thị Ngọc Hà, hiện đang là sinh viên trường Đại học khoa học xã hội nhân văn thỏ thẻ tâm sự:

- Từ khi cháu còn nhỏ vẫn thường thích sang chơi bên ông ngoại, nghe ông đọc Truyện Kiều, nghe ông kể chuyện quê hương với nghề chạm bạc mà ông và các cậu các di, các bác trong nhà theo đuổi. Cả những câu chuyện về đường ăn ý ở của người con gái trong gia đình phải như thế nào? Cháu rất yêu kính ông bà.

Ngày mồng chín tháng Giêng hàng năm là một trong nhưng ngày mà lão nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn hằng mong mỏi nhất. Ấy chính là ngày hội của làng Thịnh Yên, ngày hội chùa Vua. Vào ngày này, dù không lời hẹn trước, các thế hệ trong gia đình nghệ nhân đều tụ hội về bên người ngôi nhà cha mẹ. Bao giờ cũng vậy, lão nghệ nhân sẽ dẫn đầu cả một đoàn con cháu quần trắng áo dài rực rỡ, complett cavat thịnh soạn sang chùa lễ Phật và xem đấu cờ người, một trò vui đặc biệt của hội làng Thịnh Yên. Tiếng trống hội thì thùng lắc cắc sao mà thân thiết và thiêng liêng và ấm lòng đến vậy.

Cuộc cờ người thu quân, cha con lại cùng nhau trở về gian nhà thờ trên căn gác hai, làm lễ kính cáo tổ tiên. Trong làn khói hương trầm nồng ấm, thêm một lần niềm tự hào của nghề tổ được nhắc nhớ, thêm một lần tình gia tộc được thắt chặt. Thiêng liêng và bình dị biết bao. Bên ngoài khung cửa, trên dãy phố Thịnh Yên, một mùa lộc biếc lại dâng đầy trên những cây cơm nguội gốc xù xì sẵm màu năm tháng.

Nội dung bài viết đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Hành trình đi tìm ngọc

Hành trình đi tìm ngọc

“Hành trình đi tìm ngọc” là nội dung bài viết của tác giả, nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, trân trọng kính mời quý vị cùng lắng nghe bài viết.

Bài viết:

Hàng trăm câu ca dao, ngạn ngữ được tập hợp trong hai cuốn sách đã trở thành bộ tư liệu quý giá cho việc nghiên cứu và tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển hàng ngàn năm của đất nước và con người Hà Nội. Chúng tỏ ra vô cùng hữu ích cho công tác nghiên cứu và giảng dạy văn học, lịch sử, địa lý và các bộ môn khoa học xã hội và nhân văn của giáo viên và học sinh các cấp, đặc biệt là ở bậc đại học. Tuy nhiên, bao năm chiến tranh, giặc giã, các điều kiện nghiên cứu, sưu tầm tập hợp còn rất sơ sài, thiếu thốn. Bởi vậy chúng ta khó có thể đòi hỏi một kết quả khả dĩ hơn.

Thạc sĩ Nguyễn Thị Phương Châm vốn không phải là người gốc Hà Nội. Chị sinh ra và lớn lên trên một miền quê thuộc xứ Kinh Bắc xưa. Duyên may đưa chị đến với công trình nghiên cứu về phong cảnh Hà Nội qua những câu ca dao ngạn ngữ có lẽ bắt đầu từ cách đây gần chục năm, khi chị đạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi văn toàn quốc cấp phổ thông trung học. Đề bài là bình giảng câu ca dao: Gió đưa cành trúc la đà / Tiếng chuông Trấn võ, canh gà Thọ Xương / Mịt mù khói tỏả cành sương / Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.

Sau này, khi trở thành một cán bộ nghiên cứu khoa học ở Viện Văn hóa dân gian, chị đã dành nhiều tâm sức cho công trình nghiên cứu ca dao ngạn ngữ Hà Nội về đề tài phong cảnh, con người Hà Nội. Và chính bằng công trình ấy, chị đã được trường đại học khoa học xã hội và nhân văn quốc gia chọn mời thỉnh giảng thường kỳ hàng năm cho sinh viên ở bộ môn văn hóa cơ sở. Càng say mê theo đuổi công trình, chị càng phát hiện thêm những vẻ đẹp khôn cùng của ca dao ngạn ngữ Hà Nội. Đâu chỉ là phong cảnh thiên nhiên hữu tình, danh lam thắng tích đậm đặc, cổ kính, thiêng liêng mà còn là tình người Hà Nội thiết tha, nồng đượm: Sông Tô nước chảy trong ngần / Có con thuyền trắng chạy gần chạy xa / Thon thon đôi mái chèo hoa / Lướt qua lướt lại như là bướm gieo.

Nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Chu Hà đã bước vào tuổi xấp xỉ chín mươi. Lưng ông còng còng, trĩu nặng gánh thời gian song xem ra dáng đi còn mau mắn, nhanh nhẹn, đôi mắt tinh anh, hiền từ. Ông là người gốc Ý Yên, Nam Định nhưng sinh sống ở Hà Nội đã gần sáu mươi năm, nhà ở phố Hàng Bột cũ nay là phố Tôn Đức Thắng. Nhà thơ Chu Hà là cán bộ cựu trào của ngành văn hóa thông tin Hà Nội. Lãnh vực nghiên cứu mà ông chuyên sâu và dày công nhất chính là hát ca trù - hát ả đào. Bao câu hát ca trù đẹp như những áng thơ đã được ông sưu tầm, ghi chép và truyền lại cho lớp trẻ. Nhưng công trình mà ông tâm đắc nhất là ông đã cùng nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Vũ Tuấn Sán, người làng Lủ, thuộc xã Đại Kim, huyện Thanh Trì và hai nhà giáo là Phạm Hòa (trường phổ thông trung học Việt Đức) và Triêu Dương (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1) cùng tham gia sưu tầm và soạn thảo hai tập Ca dao ngạn ngữ Hà Nội, từ những năm sáu mươi, bẩy mươi của thế kỷ trước.

Phạm vi đề cập của hai cuốn sách đó thật rộng lớn. Nào là ca dao ngạn ngữ về đề tài lịch sử, văn hóa danh lam, thắng cảnh, di tích, sản vật, con người, nghề nghiệp, phong tục, tập quán, lễ hội, phong cách ứng xử gia đình, xã hội... Hàng trăm câu ca dao, ngạn ngữ được tập hợp trong hai cuốn sách đã trở thành bộ tư liệu quý giá cho việc nghiên cứu và tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển hàng ngàn năm của đất nước và con người Hà Nội. Chúng tỏ ra vô cùng hữu ích cho công tác nghiên cứu và giảng dạy văn học, lịch sử, địa lý và các bộ môn khoa học xã hội và nhân văn của giáo viên và học sinh các cấp, đặc biệt là ở bậc đại học. Tuy nhiên, bao năm chiến tranh, giặc giã, các điều kiện nghiên cứu, sưu tâm tập hợp còn rất sơ sài, thiếu thốn. Bởi vậy chúng ta khó có thể đòi hỏi một kết quả khả di hơn. Bây giờ, nói sao thì nói, đã ở tuổi gần đất, xa trời, nhà thơ Chu Hà không khỏi có những điều thật ngậm ngùi, tiếc nuối:

- Hồi Mỹ đánh bom Hà Nội. Nhà ngày ấy chẳng có gì gọi là đáng giá. Chỉ có tập vở tôi ghi chép những câu ca dao, ngạn ngữ mới sưu tầm được là tôi quý nhất. Liền cho vào cái két sắt cũ của nhà chủ ngày xưa để lại, khóa chặt. Nghĩ thế là chắc chắn nhất.

Không ngờ, sau một đợt đi công tác trở về, lấy ra soạn lại, thì mỗi đã xông mất hết. Tiếc đến bây giờ vẫn chưa nguôi…

Bao điều trăn trở, nhưng ở tuổi xấp xỉ cửu tuần, ông không thể còn xoay xỏa nổi. Nhưng thật may, kế tiếp sự nghiệp của các bậc lão làng, có một người không kém phần tâm huyết. Đó chính là nhà thơ, nhà báo Giang Quân. Ở độ tuổi ngót nghét tám mươi, tóc cũng đã bạc phơ phơ, ông cũng vốn là một cán bộ cựu trào sau lớp cụ Chu Hà của Sở văn hóa thông tin Hà Nội.

undefined
Thủ đô Hà Nội xưa

Ông tham gia nghiên cứu, gắn bó với ca dao, ngạn ngữ Hà Nội đã trên nửa thế kỷ. Hai cuốn sách của các bậc tiền bối đã là cơ cở vững chãi để ông tiếp tục nghiên cứu, sưu tầm. Bởi kho tàng ca dao, ngạn ngữ của vùng đất đế kinh ngàn năm này thật vô cùng phong phú và giàu đẹp... Biết bao điều còn ẩn chứa trong nhân gian rộng lớn. Cho đến năm tròn tuổi thất thập, ông mới cho công bố một cuốn sách là kết qủa của trên nửa thế kỷ đằng đẳng miệt mài. Cuốn Hà Nội trong ca dao ngạn ngữ bao gồm 500 câu, như tên gọi của nó, chỉ khuôn đề tài vào một lĩnh vực hẹp hơn, song chính là tập trung hơn, khu biệt hơn và nổi rõ đặc trưng Hà Nội hơn.

Phong cảnh, địa danh, con người, sản vật, nghề nghiệp, lễ hội của vùng đất ngàn năm văn hiến. Nhưng có một phần được bổ sung và chỉnh lý cũng như chú giải kỹ lưỡng hơn. Đặc biệt có tập hợp thêm các câu ca dao ngạn ngữ mới của thời kỳ cận đại và hiện đại của Hà Nội. Một thời gian dài, nhà thơ, nhà báo Giang Quân lại đang tiếp tục sưu tầm, tập hợp thêm trên hai trăm câu ca dao, ngạn ngữ của các vùng nội ngoại thành Hà Nội cho việc tái bản cuốn sách vào năm 2002. Ông coi đây là một công trình không của riêng mình hướng tới dịp kỷ niệm ngàn năm Thăng Long - Hà Nội.

Trong mấy năm rong ruổi khắp các vùng nội ngoại thành, niềm vui lớn nhất của ông là phát hiện được thêm những câu ca dao, ngạn ngữ bao năm còn ẩn dấu trong dân gian, chưa hề được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh đó là hàng trăm dị bản của các câu ca dao, ngạn ngữ của từng miền quê theo những mô tuýp biến thể cổ truyền. Chuyến về thăm vùng bưởi Diễn cách đây không lâu là một trong những chuyến đi may mắn của ông. Sau đây là mấy câu ca dao, hay chính là những viên ngọc quý mà ông vừa thu lượm trong chuyến đi ấy. Chợ Diễn một tháng sáu phiên / Bưởi vàng trái ngọt ai quên nhớ về.

Và điều tâm đắc nhất của ông là đã sưu tầm được những câu ca dao Hà Nội thời cận đại. Trong đó có những câu ông sưu tầm được chính ở dãy phố Khâm Thiên nơi mà gia đình ông cư trú từ sau ngày giải phóng thủ đô. Nguyên trước cách mạng Tháng Tám năm 45, Khâm Thiên vẫn còn là một phố cô đầu, nhà hát "lừng danh". Dân ăn chơi đất Hà Thành gen gọi là phố "Chị em". Hôm gặp lại nhà thơ Chu Hà, ông đã tủm tỉm đọc cho người đàn anh nghe mấy câu: Tối thì đẹp tựa tiên sa / Ngày nom rũ rượi như gà mắc mưa / Báu gì hương chạ hoa thừa / Thà rằng chẵn lẻ Hai Cua cho rồi.

Và ông nói rằng, thoạt đầu không hiểu chữ Hai Cua là gì. Hỏi ra sau mới biết rằng đó chính là một sòng bạc cũng vào loại "ác chiến" ở phố Khâm Thiên ngày trước. Bên ẩm trà Tàu đặc sánh, câu chuyện của hai bậc lão làng tưởng như khó có chỗ dứt.

Tóc xoã ngang vai xanh mướt, ở tuổi vừa tròn tam thập, may mắn hơn các bậc tiền bối của mình, thạc sĩ Nguyễn Phương Châm bước sang năm đầu thế kỷ mới, đã gấp rút chuẩn bị tài liệu cho luận văn nghiên cứu sinh học vị tiến sĩ cũng xung quanh đề tài Văn hóa tộc người Việt sinh sống trên đất nước Trung Hoa. Nhưng song song cùng với bản luận văn, sẽ vẫn là những bài giảng trên lớp cho sinh viên Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn về đề tài ca dao ngạn ngữ phong cảnh của Hà Nội. Có người từng thắc mắc trên sóng Đài phát thanh - truyền hình Hà Nội rằng: "Sao lại đọc lầm chữ đền thành chữ chùa trong một câu ca dao cũ": Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ / Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.

Thực ra là không lầm đâu! Trong bài giảng sắp tới, cô sẽ chú thích rõ hơn xuất xứ của câu ca dao là từ thời Lê Trịnh. Khi ấy đền Ngọc Sơn vốn còn đang là một ngôi chùa thờ Phật quanh năm nghi ngút khói hương.

Cũng bắt đầu từ thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, khi internet phát triển và bắt đầu từ thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, khi mạng xã hội mở rộng thì đó chính là cơ hội tốt đẹp để nở rộ việc phát lộ và thu thập ca dao, tục ngữ thành ngữ ở các địa phương, kể cả ở các vùng đất thuộc xứ Đoài, Hà Tây xa xôi khi được sáp nhập về Hà Nội. Nhanh nhậy bắt nhịp với nhu cầu tất yếu của thời đại, dăm năm trước, Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội do GS - TS Lê Hồng Lý, Chủ tịch Hội và PGS - TS Đỗ Thị Hảo, Phó Chủ tịch Hội kiêm chủ nhiệm đề tài đã đề xuất với Thành phố Hà Nội mở một dự án sưu tầm ca dao tục ngữ mới. Dự án tuy chưa kết thúc nhưng đã thu được những thành quả ban đầu tốt đẹp, thu thập được hàng ngàn câu ca dao tục ngữ ở các địa phương vùng Hà Nội cũ và Hà Nội mở rộng.

Có những câu ca dao xưa chỉ được lưu truyền trong địa vực làng xã bé nhỏ nay đã được đông đảo người dân trong và ngoài nước biết đến. Đơn cử như bài ca dao ca tụng sự chăm chỉ và tài khéo người dân làng nghề bánh gai Yên Sở thuộc vùng kẻ Giá, huyện Hoài Đức: Bánh gai làng Giá thơm ngon / Con gái làng Giá tươi giòn sắc xuân / Giã lá, xay bột chuyên cần / Khéo tay gói bánh người ăn tìm về.

Hay là mấy câu ca dao ở làng bánh gio Đắc Sở cũng thuộc vùng kẻ Giá bên dòng sông Đáy nói về một phẩm chất của đặc sản nổi danh của làng quê: Bánh gio trong hổ phách / Dẫu có đắt cũng mua / Bánh gio màu nước dưa / Dẫu có cho chả đắt.

Một câu ca dao khác của làng nghề bánh dày Quán Gánh, huyện Thường Tín ca tụng giá trị của đặc sản quê hương bằng giải pháp khoa trương đôi khi gặp trong ca dao tục ngữ: Cho dù chồng chán vợ chê / Bánh dày Quán Gánh lại về với nhau.

Nhà thơ Yên Giang vốn là Trưởng phòng Phòng Sáng tác và xuất bản Sở Văn hóa thông tin Hà Tầy và đã từng chủ biên cuốn sách Ca dao tục ngữ Hà Tây dày tới 700 trang. Sau khi Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội, tham gia vào Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội, ông là người rất tích cực và bền bỉ tham gia dự án sưu tầm tục ngữ ca dao mới của Hội văn nghệ dân gian Hà Nội với hàng trăm câu.

Nét đặc biệt trong bộ sưu tập của ông là những câu ca dao tục ngữ mới về để tài phản biện xã hội. Ông rất tâm đắc với quan niệm của người xưa:

Ngày xưa đức Khổng Tử bên Trung Hoa từng khuyên các đấng quân vương nên cử người thâm nhập vào đời sống của người dân mà thu thập những câu ca dao ngạn ngữ, những câu chuyện tiếu lâm có tính giều cợt, chống đối thể chế để từ đó nghiên cứu, phân loại ý kiến đúng sai, rồi nương theo mà sửa đổi chính sách cai trị sao cho hợp lòng dân, cũng là vì sự thịnh trị lâu dài của xã tắc.

Hơn hai mươi năm sau, cô sinh viên cao học Nguyễn Thị Phương Châm ngày nào nay đã trở thành PGS - TS Nguyễn Thị Phương Châm và đã được bổ nhiệm cương vị Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Thật mừng cho Phương Châm nhưng cũng hơi có chút ngậm ngùi khi nghe cô nói lâu rồi không còn giảng dạy hay nghiên cứu đề tài ca dao tục ngữ nói chung và ca dao tục ngữ Hà Nội nói riêng nữa.

Thế gian bao năm biến cải, đổi dời. Chẳng còn đâu nữa bóng dáng những bến trúc Nghi Tàm, rừng bàng Yên Thái, chợ đêm Khán Xuân, sâm cầm hồ Tây... Bao giờ cho nước sông Tô trở lại trong ngần? Nhưng nỗi ao ước của cô giáo trẻ người gốc Kinh Bắc một ngày xa xưa ấy, phải chăng cũng chính là nỗi mong ước đau đáu trong lòng mỗi người dân thủ đô trong hiện tại?

Mong sao các nhà quy hoạch, kiến trúc xây dựng thủ đô dù có kiến thiết, sửa sang, tôn tạo thành phố cho hiện đại, mới mẻ đến như thế nào cũng vẫn nên giữ lại những dáng nét kiến trúc và phong cảnh đặc sắc của đất Kinh kỳ Thăng Long, cho xứng danh là nơi mãi mãi "Lắng hồn núi sông ngàn năm".

Nội dung bài viết đến đây xin được tạm dừng, cảm ơn quý vị đã dành thời gian lắng nghe. Thân ái chào tạm biệt quý vị và các bạn!

Dòng họ Dương ở làng Hà Lỗ

Dòng họ Dương ở làng Hà Lỗ

“Dòng họ Dương ở làng Hà Lỗ” là nhan đề bài viết của tác giả, nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, trân trọng kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Không gian dưới mái nhà ngói cổ trầm mặc mầu quá vãng và thơm ngát khói hương. Những câu chuyện của năm bẩy trăm năm trước đang lần lượt hiện về theo dòng hồi ức của các vị hậu duệ cao niên trong dòng họ.

Vị tiến sĩ khai khoa của dòng họ Dương ở Hà Lỗ chính là Dương Văn Đán, ông đỗ đệ nhị giáp, tiến sĩ xuất thân, tức Hoàng Giáp vào năm Quý Mùi, niên hiệu Quang Thuận đời vua Lê Thánh Tông, năm 1463. Hoàng giáp Dương Văn Đán đã từng được nhà vua cử đi sứ nhà Minh và được bổ làm quan đến chức Tham chính sứ, chức quan phụ trách hành chính thứ hai tương đương như phó chủ tịch một tỉnh thành lớn giờ đây.

Đầu tháng Ba âm lịch, những làn nắng non tơ mới mẻ còn chưa kịp xua tan những cơn mưa phùn ẩm ướt.

Đất trời xứ Bắc dường như đang ngây ngất trong một bầu hương thơm dịu dàng, thanh khiết của hoa bưởi, hoa cam, hoa nhãn, hoa xoan.

Những ngõ xóm trong ngôi làng cổ Hà Lỗ đâu đó còn vương vấn phong vị của những ngày hội làng mùa xuân chưa qua in trên những dây cờ hoa phấp phới chăng ngang trên cao và cổng ngõ nhà ai còn dán hình những câu chữ đại tự giấy trang kim lấp lánh chào đón năm mới chưa hề phai sắc.

undefined
Đình Hà Lỗ

Những cảnh tượng ấy khiến cho lòng người không khỏi xốn xang. Nhất là với những người khách gốc thị thành.

Bấy lâu theo đuổi mảng đề tài danh nhân Thăng Long Hà Nội, nhà văn, nhà báo cao niên Lý Khắc Cung đã từng đặt chân đến hàng ngàn ngõ phố và các làng xã nội ngoại thành với một niềm đam mê chưa bao giờ vơi cạn. Bộ complett chỉnh chện, chiếc mũ phớt đội nghiêng trên đầu, nhà văn đang theo chân vị cán bộ phụ trách văn hóa xã bước nhanh trên con đường làng rộng rãi, phong quang.

Xóm Đông. Thôn Hà Lỗ.

Lối ngõ gạch hằn in dấu thời gian và mưa nắng.

Nóc mái những ngôi nhà vẫn mang dáng dấp như tự trăm năm trước. Mái ngói vẩy cá sẫm màu, tường hoa, sân gạch.

Hà Lỗ mang tên nôm là kẻ Giỗ, vốn là một ngôi làng cổ thuộc huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc xưa, một vùng đất nồi danh văn hiến trong lịch sử đất nước

Bước sang những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Hà Lỗ mới chia thành ba thôn là Hà Lỗ, Hà Phong và Hà Hương, đều thuộc xã Liên Hà, huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội

Đây là nơi toạ lạc của ngôi nhà thờ tổ họ Dương ở thôn Hà Lỗ.

Không gian dưới mái nhà ngói cổ trầm mặc mầu quá vãng và thơm ngát khói hương.

Những câu chuyện của năm bẩy trăm năm trước đang lần lượt hiện về theo dòng hồi ức của các vị hậu duệ cao niên trong dòng họ.

Vị tiến sĩ khai khoa của dòng họ Dương ở Hà Lỗ chính là Dương Văn Đán, ông đỗ đệ nhị giáp, tiến sĩ xuất thân, tức Hoàng Giáp vào năm Quý Mùi, niên hiệu Quang Thuận đời vua Lê Thánh Tông, năm 1463. Hoàng giáp Dương Văn Đán đã từng được nhà vua cử đi sứ nhà Minh và được bổ làm quan đến chức Tham chính sứ, chức quan phụ trách hành chính thứ hai tương đương như phố chủ tịch một tỉnh thành lớn giờ đây.

Cuộc gặp gỡ với nhà văn, nhà báo Lý Khắc Cung cũng chính là một địp để con cháu họ Dương hôm nay cùng nhắc nhớ lại truyền thống vẻ vang của các bậc tiền nhân trong dòng họ. Thật xúc động khi được nghe nhà văn Lý Khắc Cung đọc lại đôi câu đối cộ trên hai cây cột trước ban thờ:

- Tiến sĩ xuất thân thi lễ bách niên truyền dị diệp

Đại tông Dương tộc đăng hỏa đăng hương thiên tải diễn chi lưu

Có nghĩa là:

Xuất thân tiến sĩ, truyền thống thi lễ trăm năm truyền trên lá đẹp

Đại tông Dương tộc hương hỏa nghìn đời chảy mãi theo dòng xuôi.

Ngôi nhà thờ chi Giáp, tức chi trưởng họ Dương đặt tại xóm Chùa, thôn Hà Phong kế bên, xưa cùng thuộc đất làng Hà Lỗ. Mái ngói lô xô, cửa bức bàn cũ kỹ dáng vẻ khiêm nhường, giản dị.

Thế nhưng các bậc tiền nhân của dòng họ được phụng thờ tại nơi đây từng đã làm nên một sự nghiệp hiển hách để lại tiếng vang lưu truyền sử sách và làm rạng danh quê cha đất Tổ.

Con trai của tiến sĩ Dương Đán là Dương Bính. Ông thi đỗ đệ tam giáp, đồng tiến sĩ xuất thân vào khoa thi năm Bính Tuất, niên hiệu Hồng Đức, năm 1478, tuy khác niên hiệu song cùng thuộc triều vua Lê Thánh Tông với khoa thi của người cha mình.

Nối bước cha, và vượt hơn cha, ông được bổ làm quan đến chức Thừa chính sứ, tức là đứng đầu một Thừa tuyên thời Lê Giáp bảng.

Truyền đăng khai hậu duệ

Thu vi tiếp vũ địch tiền quang

(Đời trước khai khoa làm rạng rỡ

Cháu con nối tiếp được lưu truyền)

Còn đây là nơi phụng thờ tiến sĩ Dương Cảo, một trong những danh nhân xuất sắc trong lịch sử Thăng Long Hà Nội. Ông thuộc chi thứ của dòng họ Dương ở làng Hà Lỗ.

Những hàng câu đối cũ kỹ đã phai lạt sắc vàng son nhưng dường như vẫn lung linh tỏả rạng những đốm sáng lấp lánh từ một thời quá khứ xa xưa

Giáp bảng trùng hoa tiên tổ liệt

Thất chi trường ấm hậu giai mưu

(Giáp bảng vinh hoa tổ tiên một thời oanh liệt

Phúc ấm dài lâu, bảy chi hậu thế được cơ mưu)

Dương Cảo thi đỗ tiến sĩ, ngôi vị Hoàng Giáp, niên hiệu Vĩnh Tộ, triều vua Lê Thần Tông và được bổ làm tế tửu Quốc Tử Giám.

Sự tích đi thi và đậu bảng của ông cũng khá li kỳ, thậm chí hơi có vẻ huyền hoặc, song lại là sự thật đã được ghi trong sử sách.

Ông Dương Văn Nghiên, hậu duệ của tiến sĩ Dương Cảo vẫn nhớ như in

- Cụ tôi là cụ em đi theo hộ tống cụ anh đi thi. Chẳng may cụ anh bị cảm nặng mất đột ngột. Cụ em lúc bấy giờ sáng trí thế vào tên cụ anh để vào thi dù lúc ở nhà chưa hê thi qua cử nhân tú tài, chỉ là một người học trò bình thường gọi là sinh đồ. Vậy mà khi vào đến vòng thi hội thi đình, thì cụ em nhà tôi lại đỗ trên hết cả. Vua thấy trường hợp quá đặc biệt mới ban cho một câu: Tư nhân, tư tài, tư kỳ ngộ, có nghĩa là chưa hề gặp gỡ người tài nào đặc biệt như thế và ban cho thêm lời khen tặng truyền đời: Sinh đồ bất túc, Tiến sĩ hữu dư, có nghĩa là sinh đồ chửa học xong mà trình độ còn hơn tiến sĩ. Sau đó, cụ em nhà tôi tức là Tiến sĩ Dương Cảo được vua Lê Thần Tông giữ lại triều đình dạy học cho các hoàng tử con vua.

Với hàng chục đầu sách viết về lịch sử văn hoá, phong tục tập quán, danh nhân, đặc sản Hà Nội, nhà văn Lý Khắc Cung vẫn đang tiếp tục cuộc hành trình riêng tiến tới mốc dấu kỷ niệm ngàn năm Thăng Long. Kiểm chứng lại những tư liệu thu thập được trước khi đặt bút viết một để tài mới, đó là thói quen bất di bất dịch của những người cầm bút chân chính xưa và nay. Xách chiếc cặp da dày cộp bước chéo qua lối ngăn giữa hai nhà bia Văn Miếu - Hà Nội, nhà văn Lý Khắc Cung đã tìm tới được dãy bia cần tìm đến.

Ba tấm bia nằm không mấy cách xa nhau trong dãy nhà bia cánh tả của Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Mỗi tấm ghi tên một bậc tiền nhân trong họ Dương ở làng Hà Lỗ đã từng đỗ đại khoa qua các kỳ thi trong thời kỳ nho học thịnh phát của đất nước. Dương Đán, Dương Bính và Dương Cảo.

Và đây là tấm bia được đánh số 32 trong 82 tấm văn bia Quốc Tử Giám. Trong đó, ghi tên vị tiến sĩ có sự nghiệp vẻ vang nhất trong dòng họ, đó chính là tiến sĩ Dương Cảo. Ông đỗ ngôi vị hoàng giáp khoa thi năm Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ 1628, đời vua Lê Thần Tông và được bổ làm quan đến chức Tế tửu Quốc Tử Giám, tức là đứng đầu trường đại học duy nhất của đất nước được đặt chính tại địa danh này. Tên của tiến sĩ Dương Cảo người gốc làng Hà Lỗ được đặt kề cận tên tiến sĩ Giang Văn Minh, người gốc làng Đường Lâm, một vị sứ thần nồi danh trong lịch sử nước Nam)

Nhà văn Lý Khắc Cung xoa nhẹ tay lên mặt bia, đọc rõ những dòng chữ Hán khắc trên tấm bia và bảy tỏ lòng thán phục:

- Đây là tấm bia niên hiệu Vĩnh Tộ 1628 đời Lê Thần Tông. Bia này khắc tên nhiều vị tiến sĩ đỗ đại khoa kỳ thi ấy. Nhưng nổi bật nhất là tên tuổi hai vị. Một là hoàng giáp Dương Cảo người làngHà Lỗ sau trở thành quan Tế tửu Quốc Tử Giám, nghĩa như là vị hiệu trưởng trông coi việc quản lý lễ nghi của trường đại học quốc gia duy nhất của đất nước hồi ấy. Như vậy là vị thế rất quan trọng, không hề giản đơn.

Trong cuốn sách Các làng khoa bảng Thăng Long Hà Nội xuất bản năm 2004 của PGS - Tiến sĩ Bùi Xuân Đính, Viện Dân tộc học, thì sau các làng Đông Ngạc, Tả Thanh Oai, Nguyệt Áng, Phú Thị, Thượng Yên Quyết, Hạ Yên Quyết, hai làng Vân Điềm và làng Hà Lỗ thuộc huyện Đông Ngàn cũ, nay là huyện Đông Anh đều được xếp hạng ngang bằng nhau ở vị trí số 7. Và mỗi làng đều có 7 vị tiến sĩ nho học đỗ đạt qua các triều đại phong kiến Việt Nam. Trong đó, họ Dương lại chiếm 3 trong số 7 vị tiến sĩ của làng Hà Lỗ. Ngoài ra, còn có một số vị đỗ trung khoa và tiểu khoa cũng được triều đình bổ làm quan hoặc ở nhà mở trường dạy học.

Trải hàng trăm năm đất nước lâm cảnh chiến tranh giặc giã liên miên, truyền thống khoa bảng của dòng họ Dương Hà Lố cũng đứt nối đôi lần. Nhưng tinh thần hiếu học vẫn như một mạch ngầm luôn luôn tuôn chảy trong dòng máu người họ Dương. Trong gia phả của dòng họ nay vẫn còn chép câu chuyện vượt khó, theo đuổi con đường học vấn của vị cử nhân Nho học cuối cùng là Dương Tuấn Duy. Trong vòng 5 năm, nào cha mẹ bệnh nặng rồi khuất núi, nào chú thím đỡ đầu lần lượt nằm xuống, nào con trai yểu mệnh, anh trai mắc vòng kiện tụng, gia cảnh sa sút, ông vẫn vừa lo toan việc nhà vừa tiếp tục đèn sách lều chõng đi thi theo đúng ước nguyện của cả dòng tộc cử nhân Dương Tuấn Duy, thi đỗ năm Đinh Dậu, triều vua Thành Thái nhà Nguyễn 1897. Cụ Dương Văn Quyến, hậu duệ của cử nhân Dương Tuấn Duy nay đã ngoại tuổi tám mươi trân trọng lau chỉ lên tấm bằng ghi công của chính phủ phong tặng cử nhân Dương Tuấn Duy đã có công nuôi giấu cán bộ cách mạng từ thời kỳ tiền khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám năm 1945:

- Cái năm cụ tôi thi đỗ cử nhân thì cụ tôi đã vào tuổi 36. Thi đỗ xong được chính quyền bảo hộ Pháp bổ đi làm quan ngay. Nhưng cụ tôi lấy cớ gia đình khó khăn xin khước quan ở nhà mở trường dạy học. Học trò các vùng xung quanh theo học rất đông, có lúc đông nhất là gần 200 người. Rất nhiều học trò của cụ sau đó đã học thành tài thành danh.

Rời quân ngũ trở về học đại học rồi tiếp tục làm luận văn tiến sĩ, nhà giáo Dương Văn Thịnh nay đang nắm giữ cương vị chủ nhiệm khoa triết học Trường Đại học Khoa học nhân văn thuộc Đại học quốc gia Hà Nội. Sau những giờ lên lớp cho sinh viên về những vấn đề thuộc một lĩnh vực được coi là cao siêu hơn cả so với các lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội khác, vị tiến sĩ triết học họ Dương cũng không xa rời những điều vốn dĩ rất gần gũi với cuộc sống tinh thần của con người. Theo tiến sĩ Dương Văn Thịnh thì điều gì là quan trọng nhất về mặt tinh thần mà ông đem theo trong suốt cả một chặng đường dài nghiên cứu và giảng dạy?

- Tôi rất tự hào và yêu quý nghề dạy học truyền đời của gia tộc học Dương. Từ cụ tôi cho tới ông cha tôi rồi đến anh chị em chúng tôi, cả vợ tôi cũng theo nghề dạy học. Truyền thống gia đình dòng tộc nó tác động đến con người rất sâu sắc mặc dù đôi khi nó không hề hiển hiện. Nó bắt ta phải cân nhắc mỗi khi hành xử trước bất cứ vấn đề gì, nhắc nhở ta rằng làm điều gì cũng phải nghĩ là có phù hợp với truyền thống hoặc có ảnh hưởng gì đến truyền thống hay không? Và mỗi khi gặp bất cứ khó khăn ngáng trở nào, truyền thống cũng khiến ta có thêm nghị lực phấn đấu hết mức để vượt qua và tiến tới mục đích cao nhất. Tôi nghĩ là giáo dục truyền thống và có ý thức về truyền thống gia đình, dòng họ, quê hương, và cả dân tộc là rất quan trọng, nhất là trong việc hình thành nhân cách con người trong thời đại mới.

Liên Hà trong những năm đất nước và thành phố bước vào thời kỳ đổi mới và phát triển may mắn vẫn còn giữ được những dáng nét thần thương của một những ngôi làng cổ cùng những nề nếp làm ăn sinh sống thuần hậu, ấm êm trong cộng đồng cư dân cùng với truyền thống cần cù, hiếu học.

Ngôi nhà nằm ngay mặt phố chợ Liên Hà này của gia đình kỹ sư Dương Quang Trung còn đang thơm mùi vôi mới. Trong nhà đầy đủ tiện nghi phục vụ cho cuộc sống và thiết bị cho học tập, nghiên cứu. Tốt nghiệp đại học Bách khoa và trở về công tác ngay tại huyện nhà, giờ đây, ở độ tuổi xấp xỉ tam thập, tam thập nhi lập, chàng trai này cũng đang đặt kế hoạch phấn đấu nâng cao học vấn cho cho chính bản thân mình trong một tương lai gần. Lớp con cháu họ Dương trưởng thành trong những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI ngay ở quê hương Liên Hà đã và đang có thêm những điều kiện tốt đẹp hơn để có thể biến những ước mơ và khát vọng của cha anh và của chính bản thân mình trở thành hiện thực.

Kỹ sư Dương Quang Trung nhiệt huyết bày tỏ ý nguyện phấn đấu cho tương lai:

- Ngày xưa ông cha điều kiện kinh tế còn rất khó khăn mà đã nêu gương hiếu học rạng danh dòng họ. Nay lớp cháu con chúng tôi đã có một cuộc sống sung túc đủ đầy hơn trước rất nhiều.

Nhưng tôi vẫn quyết tâm dành dụm tiền của và thời gian để rồi sẽ tiếp tục học tập, nghiên cứu. Tôi rất thấm nhầu tinh thần: Học, học nữa, học mãi.

Cuốn sách Liên Hà, truyền thống lịch sử văn hóa và Cách mạng có một vài tấm bảng liệt kê tên tuổi các liệt sĩ đã hy sinh trong những cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc ở thế kỷ XX. Chỉ tính riêng thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, trong tổng số 39 liệt sĩ của làng Hà Lỗ, đã có tới 26 vị là người thuộc dòng họ Dương.

Đó là những con số ngập ứ máu và nước mắt.

Và nỗi đau này không phải của riêng mỗi gia đình, dòng họ.

Nghĩa trang xã Liên Hà nằm bên cánh đồng lúa xuân đang vào thì con gái xanh non.

Cỏ dù đã thắm tươi trên những ngôi mộ cũ.

Những hạt sương đêm đọng ánh nắng ban mai long lanh, lóng lánh.

Dường như đêm đêm, nước mắt của Trời và Đất vẫn thầm rơi.

Có lẽ bởi thế, nhân gian ngàn đời vẫn hằng đón đợi những giây phút thần diệu đầu tiên của một ngày mới.

Thấm thoắt trên bốn mươi năm đã qua kể từ ngày Đại thắng huy hoàng, non sông liền một dải, xóm thôn no ấm yên vui. Những người con bất khuất của đất mẹ Liên Hà hẳn đã ngậm cười nơi chín suối.

Những ngày cuối tháng tư là những thời khắc vô cùng thiêng liêng kỷ niệm ngày giải phóng thống nhất đất nước.

Dịp lễ kỷ niệm trọng đại của đất nước cũng trùng với kỳ lễ thanh minh của người dân đất Việt.

Khắp nghĩa trang Liên Hà rạng rỡ sắc nến hoa và thơm ngát hương nhang.

Thăm viếng những người anh em họ hàng cùng huyết tộc, song người họ Dương không quên dành những những nén hương thơm trân trọng thắp lên bên trên những ngôi mộ của những liệt sĩ đồng hương trong những dòng họ xóm giềng, những dòng họ đã cùng dòng họ Dương viết nên những trang sử vàng truyền thống học hành khoa bảng, văn võ toàn tài cũng như truyền thống xây dựng và bảo vệ tổ quốc của vùng đất quê Liên Hà, Đông Anh.

Tham gia đoàn viếng nghĩa trang hôm nay có cả ông Dương Văn Quỳnh, bí thư chi bộ thôn Hà Lỗ, xã Liên Hà, huyện Đông Anh. Ông xúc động bày tỏ:

- Dòng họ Dương là một dòng họ lớn ở địa phương, chiếm tới non nửa số dân thôn Hà Lỗ. Trong thời phong kiến thì dòng họ

Dương đã có nhiều vị đỗ đạt đại khoa cống hiến tài năng cho đất nước. Trong các cuộc kháng chiến cách mạng thì dòng họ Dương cũng đã có nhiều vì cán bộ lãnh đạo các cấp dẫn dắt các phong trào. Và cũng có nhiều sĩ quan chiến sĩ lên đường ra mặt trận rồi hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, phát huy truyền thống, bà con của dòng họ Dương cũng đã cùng với các dòng họ khác của địa phương chung tay xây dựng sự nghiệp kinh tế văn hóa phát triển. Hà Lỗ chúng tôi đã nhiều năm liền đạt danh hiệu Làng văn hóa cấp thành phố.

Thấm thoắt lại đã sắp đến ngày hội thi chim hòa bình truyền thống của làng quê Hà Lỗ. Những người con của dòng họ Dương lại tế tựu bên nhà thờ họ, trước là để lễ Tổ, sau là để cùng cụ trưởng họ chăm chút, sắp sửa cho đoàn chim dự tuyển.

Nắm thóc vung lên mái nhà, đàn chim vù vù đập cánh sà xuống thi nhau nhặt. Cảnh tượng thật ấm áp, an bình Thú chơi chim hào hoa của dòng họ Dương đã có từ bao giờ chẳng rõ. Thời nào cũng có những người rất đam mê và cũng đã từng giành được những giải cao trong các dịp hội làng, hội xứ Đông Ngàn xưa và thủ độ Hà Nội hôm nay.

Những đàn chim vỗ cánh bay vút lên bầu trời xanh thằm mang theo niềm khát vọng muôn đời không chỉ của những thế hệ người họ Dương Hà Lỗ mà là của tất thảy loài người trên thế gian.

Nội dung bài viết đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!