Nghề truyền thống trăm năm ở thôn Chả
Ông Vi Văn Xoan (52 tuổi, thôn Chả, xã Phong Vân, tỉnh Bắc Ninh) kể, gia đình ông đã gắn bó với nghề nuôi ngựa hơn trăm năm qua. “Nhà tôi nuôi ngựa từ đời ông, đời cha để lại, đến giờ cũng phải hơn trăm năm rồi. Ngày xưa các cụ nuôi để thồ hàng, một con cưỡi, một con chở hàng đi sau. Ngựa gắn bó với gia đình từ thuở ấy”, ông Xoan nhớ lại.

Chăn nuôi ngựa giúp người dân vùng xã Phong Vân cải thiện sinh kế. Ảnh minh hoạ
Khoảng ba thập kỷ trở lại đây, thay vì chỉ nuôi để phục vụ vận chuyển, nhiều hộ dân trong thôn đã chuyển sang nuôi ngựa thương phẩm. Hiện tại, gia đình ông Xoan duy trì khoảng 30 con, trong đó có ngựa sinh sản và ngựa nuôi lấy thịt.
“Trước kia, một con ngựa con bán được 45 - 50 triệu đồng, giờ chỉ còn 15 - 20 triệu. Đỉnh điểm, năm 2022, gia đình tôi lãi khoảng 500 - 600 triệu, nay chỉ còn một nửa thôi. Nhưng dù sao, chăn nuôi ngựa vẫn là nguồn sống chính của gia đình”, ông Xoan chia sẻ.
Nuôi ngựa ở thôn Chả không tốn kém nhiều chi phí, bởi ngựa được thả rông trên đồi, chỉ cần bổ sung thêm bẹ ngô. Gần 99% hộ trong thôn, trong đó có nhiều hộ là người dân tộc thiểu số đều nuôi ngựa, coi đây là sinh kế quan trọng. Ông Xoan khẳng định: “Nhà nào có đàn ngựa thì kinh tế ổn định hơn hẳn. Một con ngựa con cũng bán được khoảng 20 triệu. Ai nuôi 5 - 10 con thì mỗi năm cũng có thêm vài trăm triệu đồng”.
Tuy nhiên, đầu ra cho sản phẩm từ ngựa vẫn chưa ổn định. Thịt ngựa, giò ngựa hay cao ngựa chủ yếu bán cho khách quen, lượng tiêu thụ phụ thuộc vào mùa vụ. “Mọi năm, ngày nào trong thôn cũng thịt một con ngựa, bán hết trong ngày. Nhưng năm ngoái mất mùa vải, năm nay được mùa lại mất giá, bà con không có tiền mua, thành ra ngựa cũng khó bán hơn”, ông Xoan chia sẻ.

Mô hình chăn nuôi ngựa bạch có giá trị kinh tế cao. Ảnh minh hoạ
Dẫu vậy, người dân vẫn kiên trì giữ nghề. Với họ, nuôi ngựa không chỉ là kế sinh nhai, mà còn là truyền thống cha ông để lại. “Chỉ cần có đầu ra ổn định, sản phẩm từ ngựa chắc chắn sẽ giúp bà con thoát nghèo, vươn lên khá giả”, ông Xoan kỳ vọng.
Ngựa bạch hướng đi mới nâng cao giá trị
Không chỉ dừng lại ở ngựa thường, vài năm gần đây xã Phong Vân đã phát triển mô hình nuôi ngựa bạch – giống ngựa quý hiếm, mang lại giá trị kinh tế cao. Ông Trương Văn Lộc, Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ Nông Lâm nghiệp xã Phong Vân, cho biết: “Địa phương vốn có truyền thống nuôi ngựa, lại có đồng cỏ rộng, thức ăn dồi dào. Thêm nữa, bà con đã quen với nghề này nên khi phát triển đàn ngựa bạch rất thuận lợi”.
Ban đầu, nhiều hộ còn e dè vì mô hình mới mẻ. Nhưng khi thấy hiệu quả rõ rệt, ngày càng nhiều gia đình tham gia. “Trước kia người dân chỉ bán ngựa sống. Nay có chế biến sâu như cao ngựa, sản phẩm được thị trường chấp nhận, giá trị tăng lên, bà con phấn khởi lắm”, ông Lộc chia sẻ.
Ngựa bạch ít dịch bệnh, dễ chăm sóc, có thể nuôi theo hình thức bán chăn thả. Giá trị kinh tế của chúng cao hơn hẳn ngựa thường: Thịt dao động từ 200.000–270.000 đồng/kg, cao ngựa bạch lên tới 1-1,2 triệu đồng/lạng.
“Những năm 2021 - 2022, khi nguồn ngựa nhập khan hiếm, giá ngựa bạch trong nước tăng vọt, có con bán được 100 - 120 triệu đồng, giúp nhiều hộ đổi đời. Hiện nay, giá đã giảm xuống khoảng 60 triệu đồng/con trưởng thành, nhưng vẫn mang lại lãi suất khá”, ông Lập cho hay.

Cao ngựa bạch đang được người dân Phong Vân bán với giá 1-1,2 triệu đồng/lạng. Ảnh minh hoạ
Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất với người dân Phong Vân hiện nay là vốn và đầu ra. Ông Lộc thẳng thắn: “Đầu tư chuồng trại, giống, bao bì sản phẩm đều cần chi phí lớn. Hợp tác xã chưa liên kết được với các hệ thống phân phối lớn, sản phẩm chủ yếu bán trong huyện hoặc qua Facebook, TikTok. Quảng bá còn hạn chế, chúng tôi rất mong được hỗ trợ tập huấn, tham gia hội chợ, đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử”.
Trong bối cảnh nông nghiệp miền núi còn nhiều khó khăn, mô hình nuôi ngựa bạch cho thấy sự mạnh dạn thay đổi của bà con. Với quyết tâm của nông dân, sự đồng hành của hợp tác xã và hỗ trợ từ chính quyền, hướng đi này không chỉ mở ra cơ hội xóa đói giảm nghèo, mà còn gìn giữ giống ngựa quý, tạo dựng thương hiệu nông sản đặc hữu mang dấu ấn riêng của xã Phong Vân.
Xã Phong Vân có diện tích tự nhiên 3,6 nghìn ha thì có tới gần 2/3 là rừng bao gồm hơn 1 nghìn ha rừng phòng hộ và 1,27ha rừng sản xuất. Điều kiện tự nhiên nơi đây khắc nghiệt, nguồn nước cho sinh hoạt và sản xuất đều thiếu thốn, nhất là vào mùa khô. Bà con dân tộc Tày và Nùng chiếm 60,2% dân số của xã. Địa phương có nghề nuôi ngựa truyền thống, tuy nhiên, sản xuất, tiêu thụ vẫn mang tính tự phát. Người dân, nhất là bà con dân tộc thiểu số trên địa bàn xã cần sự hỗ trợ nhiều hơn nữa trong đa dạng sản phẩm và quảng bá tiêu thụ sản phẩm chế biến từ ngựa.