Khủng hoảng lương thực: Chính phủ Malaysia cấm xuất khẩu gà |
Hội nghị Bộ trưởng Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) lần thứ 12 sẽ diễn ra từ ngày 12/6. Hiện, có ít nhất 60 quốc gia bao gồm cả Ấn Độ, Trung Quốc, Pakistan, Ai Cập, Indonesia và Nam Phi đã đề xuất một phương pháp mới để tính toán các khoản trợ cấp được đưa ra để mua, dự trữ và phân phối lương thực nhằm cho các quốc gia đang phát triển và nghèo.
Đảm bảo dự trữ lương thực công khai
Đề xuất này có sức nặng chính trị rất lớn và quan trọng vào thời điểm giá lương thực toàn cầu đang tăng, họ cần đảm bảo dự trữ lương thực công khai. Các nước đã đề xuất một phương pháp luận mới để tính toán các khoản trợ cấp bằng cách tính toán “lạm phát quá mức” trong Giá tham chiếu bên ngoài (ERP) hoặc tính toán ERP dựa trên 5 năm qua, không bao gồm mục nhập cao nhất và thấp nhất cho sản phẩm đó. ERP là giá trung bình dựa trên các năm cơ sở 1986-1988 và không được sửa đổi trong nhiều thập kỷ qua.
Giá lương thực toàn cầu tăng đột biến |
Hiệp định Nông nghiệp của WTO thừa nhận rõ ràng sự cần thiết phải tính đến an ninh lương thực - cả trong các cam kết mà các thành viên WTO đã thực hiện cho đến nay, được giám sát trong Ủy ban Nông nghiệp và trong các cuộc đàm phán đang diễn ra. Các nhà lãnh đạo thế giới cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của thương mại đối với việc cải thiện an ninh lương thực và dinh dưỡng trong các cam kết mà họ đã đưa ra trong Chương trình nghị sự 2030 - và đặc biệt là Mục tiêu phát triển bền vững 2 (SDG). Theo SDG 2b, các nhà lãnh đạo cam kết “sửa chữa và ngăn chặn các hạn chế và méo mó thương mại trên thị trường nông sản thế giới”. Các Bộ trưởng thương mại đã đóng góp vào tiến độ thực hiện mục tiêu này khi họ thông qua quyết định lịch sử là bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản và đặt ra các quy định mới cho các hình thức hỗ trợ xuất khẩu nông sản khác tại Hội nghị Bộ trưởng Nairobi năm 2015 của WTO. Thương mại có thể cải thiện nguồn lương thực sẵn có ở những nơi khan hiếm - và cũng có thể cải thiện khả năng tiếp cận lương thực bằng cách tạo việc làm và nâng cao thu nhập. Một hệ thống thương mại dễ dự đoán hơn cũng có thể cải thiện sự ổn định, một thành phần quan trọng khác của an ninh lương thực.
Chính sách bảo hộ đang trở lại
Cuộc xung đột ở Ukraine đang làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng cung cấp lương thực đã có từ trước, và ngày càng nhiều quốc gia phản ứng bằng cách cắt giảm xuất khẩu và tích trữ tài nguyên. Bắt đầu với việc Indonesia cấm xuất khẩu dầu cọ có giá trị của mình vào tháng 4. Vào tháng 5, Ấn Độ tuyên bố bắt đầu hạn chế xuất khẩu lúa mì và đường. Malaysia cũng ra phán quyết rằng nước này bắt đầu cấm xuất khẩu thịt gà bắt đầu từ mùa hè năm nay. Theo WTO, đây chỉ là một vài trong số hơn 20 quốc gia đang tạm ngừng xuất khẩu lương thực hiện nay khi thế giới phản ứng với việc giá lương thực tăng cao và gia tăng lo ngại về nguồn cung hạn chế.
Những lo ngại này tồn tại trước khi chiến sự nổ ra, với việc ngày càng có nhiều quốc gia thực hiện các chính sách bảo hộ của riêng mình, làn sóng mới này có thể sẽ gây ra những hậu quả tiềm tàng trên toàn cầu. Có một từ để chỉ xu hướng này là “chủ nghĩa bảo hộ lương thực” - và trong khi các quốc gia thực hiện chủ nghĩa này có thể coi đây là biện pháp cần thiết để bảo vệ nền kinh tế của họ, thì nó lại đang đe dọa các quốc gia mất an ninh lương thực nhất thế giới, nhiều quốc gia đang trên bờ vực khủng hoảng đói kém.
Thực tế đối với các quốc gia đang hạn chế xuất khẩu lương thực, nỗi lo thiếu lương thực trong nước là điều có thật, và chủ nghĩa bảo hộ hoàn toàn không phải là một chiến thuật mới. Năm 2007 và trong những tháng đầu năm 2008, giá lương thực trên toàn thế giới tăng vọt do giá dầu cao và hạn hán nghiêm trọng ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp ở nhiều nước, làm căng thẳng nguồn cung toàn cầu. Kết quả, giá lương thực toàn cầu tăng đột biến, dẫn đến giá gạo tăng 300% chỉ trong 4 tháng đầu năm 2008. Cuộc khủng hoảng giá gạo đặc biệt liên quan đến một số quốc gia châu Á, nơi đây là lương thực chính trong khẩu phần ăn, và nhiều nước đã chọn đặt lệnh cấm xuất khẩu gạo vì lo ngại rằng sắp xảy ra tình trạng thiếu hụt toàn cầu. Ấn Độ, nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới vào thời điểm đó, đã duy trì lệnh cấm xuất khẩu gạo không phải gạo basmati trong hai năm từ năm 2008 đến năm 2010.
Chuỗi cung ứng bị bóp méo
Một số chuyên gia đã nghiên cứu rủi ro thực phẩm trong nhiều thập kỷ tin rằng, một kịch bản tương tự đang diễn ra trong cuộc khủng hoảng giá lương thực hiện nay. Không có Chính phủ nào ở châu Á có thể bỏ qua những áp lực đó. Đối với các quốc gia châu Á bị ảnh hưởng bởi giá lương thực tăng vọt trong quá khứ, lựa chọn áp dụng các biện pháp bảo hộ hơn trong thời kỳ thiếu hụt tiềm năng là hợp lý. Nhưng, làm như vậy trong một thời gian dài có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng trên toàn cầu, và phản ứng của chủ nghĩa bảo hộ cho đến nay chủ yếu xuất phát từ sự hoảng loạn và thị trường hoang mang hơn là các mối đe dọa hữu hình.
Các chuyên gia cảnh báo rằng, sự hoảng loạn hơn trên thị trường thực phẩm và các chính sách bảo hộ có thể dẫn đến giá cả và chuỗi cung ứng bị bóp méo hơn nữa trên toàn thế giới. Nhưng đó thậm chí không phải là rủi ro lớn nhất mà chủ nghĩa bảo hộ lương thực mang lại, vì nhiều quốc gia phụ thuộc vào nhập khẩu lương thực đang có nguy cơ xảy ra một cuộc khủng hoảng đói toàn diện.
Theo Liên hợp quốc, giá lương thực tháng trước cao hơn gần 30% so với tháng 4/2021, dẫn đến giá thịt và giá đường tăng. Giá các loại ngũ cốc chủ yếu cũng dao động ở mức rất cao. Cuộc chiến Ukraine chỉ làm trầm trọng thêm một cuộc khủng hoảng vốn đã vượt quá tầm kiểm soát. Bắc Phi và châu Phi cận Sahara bị ảnh hưởng nặng nề, đầu tiên với lúa mì, sau đó là giá gạo.
Trước đại dịch, châu Phi nhập khẩu khoảng 85% lượng lương thực của mình, với các nước chi khoảng 35 tỷ USD mỗi năm cho nhập khẩu lương thực. Sản xuất đình trệ trên toàn thế giới, và gián đoạn chuỗi cung ứng hạn chế nhập khẩu, đã tạo ra những nguy cơ mất an ninh lương thực lớn trên lục địa trong thời kỳ đại dịch. Kết hợp với hạn hán đã ảnh hưởng đến nông nghiệp địa phương, làn sóng thiếu lương thực toàn cầu mới nhất đã khiến nguy cơ thiếu đói càng lớn hơn. Các quốc gia ở châu Phi phụ thuộc vào gạo và nhập khẩu lúa mì đang chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ việc tăng giá, với giá gạo hàng năm tăng hơn 30% và giá lúa mì tăng hơn 70%.