Nợ xấu của công nghiệp chế biến, chế tạo lớn nhất

Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM), nợ xấu của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 22% tổng nợ xấu và chiếm phần lớn nhất, kế đến mới là nợ xấu bất động sản và dịch vụ (19%).

CôngThương - Báo cáo của CIEM tại hội thảo “Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Indonesia” do Quỹ hòa bình và phát triển Việt Nam tổ chức hôm 9-7 tại Hà Nội chỉ rõ dư nợ lớn đang tập trung vào các ngành công nghiệp (29%), dịch vụ (27%), thương mại (20%).

Trong đó, nợ xấu ở ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với 22% tổng dư nợ, bất động sản và dịch vụ (19%), ngành buôn bán, sửa chữa ô tô, xe máy (19%), ngành vận tải, kho bãi (11%), ngành xây dựng (10%).

CIEM nhận định, các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng ở Việt Nam đã tập trung cho vay quá nhiều vào các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trong khi các đơn vị này kinh doanh không hiệu quả. Theo Ngân hàng nhà nước (NHNN), năm 2012 các DNNN, tập đoàn kinh tế nhà nước chiếm tới 70% tổng tổng số nợ xấu.

Dư nợ của các thành phần kinh tế khác chiếm 81-83% tổng dư nợ nhưng nợ xấu chỉ chiếm khoảng 30% tổng số nợ xấu.

Tỷ lệ nợ xấu tại một số tổ chức tín dụng, nhất là các ngân hàng quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước tuy không lớn nhưng do quy mô dư nợ lớn nên số tuyệt đối cao. Do vậy, nợ xấu này chiếm phần lớn nợ xấu của toàn nền kinh tế. Đáng chú ý là nợ xấu của ngân hàng SHB chiếm 8,53% tổng dư nợ cho vay, Bảo Việt Bank 5,94%, Agribank 5,8%.

Hiện nay có khoảng 84% nợ xấu có tài sản đảm bảo, 16% không có tài sản đảm bảo.

Theo số liệu của NHNN đến ngày 30-9-2012, nợ xấu của Việt Nam vào khoảng 255.168 tỉ đồng, chiếm 8,86% tổng dư nợ. Đến ngày 28-2-2013, nợ xấu chỉ còn chiếm 6% tổng dư nợ, ước khoảng 176. 208 tỉ đồng. Một điểm đáng chú ý là có sự chênh lệch khá lớn về tỷ lệ nợ xấu công bố của các tổ chức. Theo đánh giá của Fitch Ratings tính đến ngày 30-9-2012, nợ xấu khoảng 15% tổng dư nợ, Baclays cho rằng nợ xấu ở mức 20%.

CIEM chỉ ra các nguyên nhân lớn nhất dẫn đến tình trạng nợ xấu ở Việt Nam rơi vào tình trạng khó giải quyết và thiếu minh bạch như hiện nay. Đó là môi trường pháp lý về hoạt động ngân hàng chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện. Một số quy định đã có nhưng chưa được triển khai (về xiết nợ, về phát mại tài sản, về thế chấp, cầm cố, các quy định liên quan đến quyền sử dụng đất đai,...). Hiệu lực thực thi các văn bản pháp luật chưa cao nên những rủi ro tiềm ẩn rất cao đối với lĩnh vực ngân hàng Việt Nam còn rất lớn.

Thứ đến là năng lực quản trị rủi ro của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng yếu kém. Các quy định về công bố thông tin chưa đầy đủ và hiệu lực thi hành thấp gây ra sự thiếu minh bạch; tăng trưởng tín dụng nóng… Hoạt động thâu tóm, mua bán, sáp nhập các công ty sân sau, sở hữu chéo trong ngân hàng,… đã tạo ra những vòng luẩn quẩn của dòng tiền.

Mặt khác, quá trình xử lý nợ xấu thiếu hiệu quả, tiêu thức phân loại nợ chưa phản ánh đúng số nợ xấu, nhiều vướng mắc trong cơ chế xử lý tài sản đảm bảo. Chính sách về xử lý nợ xấu hiện tại chưa được thực hiện một cách hiệu quả, thị trường mua bán nợ chưa phát triển.

Ngoài ra, môi trường kinh doanh và hoạt động của các doanh nghiệp cũng chịu nhiều tác động của khủng hoảng kinh tế nên chất lượng tín dụng suy giảm và nợ xấu tăng nhanh.

Theo KTSG

Bình luận