Tháng 12 năm 1972, Hà Nội bừng lửa trong chiến dịch Điện Biên Phủ trên không. Trên bầu trời, hàng loạt “pháo đài bay” B52 gầm rú, trút xuống những trận bom rải thảm xé toạc từng góc phố, từng mái nhà. Trên mặt đất, nhân dân Thủ đô vừa chiến đấu, vừa gồng mình trong khói lửa.
Nhưng ít ai biết rằng, ngay dưới lòng đất, trong những căn hầm nhỏ bé, chật chội cũng có một trận chiến căng thẳng không kém, nơi những người lính cơ yếu ngày đêm cặm cụi với những con chữ, giữ vững "mạch máu chỉ huy" cho cả chiến trường miền Bắc.
Trận chiến âm thầm giữa lòng đất
Trong những tháng ngày lịch sử năm 1972, dưới căn hầm D66 (hay còn được biết đến là hầm Cơ yếu, nằm bên trong lòng đất của Hoàng thành Thăng Long), những người lính cơ yếu, đa phần tuổi đời còn rất trẻ đang âm thầm canh giữ từng mệnh lệnh, từng dòng điện báo, từng con chữ, để bảo đảm mạch sống chỉ huy cho cả bầu trời Thủ đô.
Ông Nguyễn Văn Song, một trong những người gắn bó trọn đời với ngành cơ yếu, đã từng làm việc dưới căn hầm D66 ấy trong 12 ngày đêm của trận chiến Điện Biên Phủ trên không nhớ lại: “Công việc của chúng tôi ngày ấy là giải mã và truyền mệnh lệnh từ cấp trên xuống chiến trường, rồi tiếp nhận tin tức từ chiến trường báo về. Tất cả phải tuyệt đối chính xác, dù chỉ một dấu chấm, dấu phẩy sai lệch cũng có thể khiến chiến trường tổn thất nặng nề”.
Ông Song kể, ca trực bắt đầu từ 5 giờ chiều hôm trước đến 5 giờ sáng hôm sau. Mười hai tiếng ngồi bên chiếc bàn gỗ cũ, ánh đèn vàng hắt xuống những trang giấy chi chít ký hiệu. Hầm thấp, nhiều khi sơ ý ngẩng đầu là cụng trán vào trần. Ngoài kia, bom gào rú, đất rung chuyển. Trong hầm, tim người cũng thắt lại từng nhịp.
“Có những lúc nhìn qua cửa hầm thấy ánh lửa đỏ rực, chúng tôi chỉ nghĩ chắc nó rơi xuống đầu mình. Nhưng chẳng ai cho phép mình sợ, nhiệm vụ buộc phải hoàn thành”, ông Song bồi hồi.
Bà Nguyễn Thị Yểng, năm nay 79 tuổi, từng là nhân viên mã dịch của Phòng Điện báo, Cục Cơ yếu kể lại: “Bom rền trên đầu, nhưng ở dưới hầm, chúng tôi vẫn làm việc liên tục, có khi ngủ gục ngay trên bàn. Tôi biết nguy hiểm, nhưng không còn nghĩ cho bản thân, chỉ nghĩ làm sao bức điện phải đi kịp lúc”.

Từ trái sang: Bà Nguyễn Thị Yểng (áo dài tím), bà Dương Thị Bột (áo dài đỏ), ông Nguyễn Văn Song (áo nâu) tại Hoàng Thành Thăng Long tháng 8/2025.
Ngoài bom đạn, những người lính cơ yếu còn gồng mình trước áp lực tinh thần khủng khiếp, xử lý điện khẩn trong vòng 5 - 7 phút, nhiều khi tin báo từ chiến trường là danh sách dài những cái tên đã ngã xuống.
“Có lúc chúng tôi gục xuống bàn khóc, chỉ huy tưởng mệt, hỏi han. Nhưng chúng tôi nói: Không phải mệt, mà thương đồng đội quá nhiều. Rồi lại phải nén nước mắt, tiếp tục làm”, bà Dương Thị Bột - nguyên cán bộ Phòng Điện báo nhớ lại.
Trong lòng đất, họ chiến đấu bằng trí óc, bằng ý chí thép. Không ai nhìn thấy, không ai biết đến, nhưng chính họ đã giữ cho mạch máu chỉ huy không bao giờ đứt đoạn.
Những con chữ là đường biên sinh tử
Khác với những trận đánh ngoài chiến trường, trận chiến của lính cơ yếu là cuộc đua với từng phút giây. “Có những bức điện chỉ đạo đối phó với B52 rải thảm, chúng tôi chỉ có tối đa 7 phút để giải mã và truyền đi. Nếu chậm, hậu quả là hàng trăm sinh mạng có thể mất. Đó là sức ép ghê gớm, nhưng chúng tôi hiểu rõ trách nhiệm của mình”, ông Nguyễn Văn Song khẳng định.
Bà Dương Thị Bột - nguyên cán bộ Phòng Điện báo, nhớ như in cấu trúc của đơn vị mình: 4 ban gồm Ban Tổng hợp, Ban A, Ban B, Ban C thì mỗi ban phụ trách một mạng liên lạc, tuyệt mật và không được phép tiết lộ sang ban khác.
“Có những bức điện khẩn, tối mật, thường phải do cán bộ liên lạc trực tiếp mang bằng phong bì niêm phong. Chúng tôi chỉ được nhìn thấy những gì thuộc phạm vi công việc. Nguyên tắc ‘cần đến đâu biết đến đó’ được giữ tuyệt đối”, bà kể.
Nhưng hơn cả kỷ luật, điều khiến họ vượt qua được tất cả chính là tinh thần đồng đội. Trong căn hầm thấp, ẩm, nhiều khi cả tuần không thấy ánh sáng mặt trời, họ chia sẻ cho nhau từng miếng cơm, từng ngụm nước.
Bà Yểng kể lại: “Có hôm tôi phải đưa cả con trai lớn mới hơn một tuổi vào ca trực. Đồng đội thay nhau bế con để tôi làm việc. Khó khăn, nhưng ấm áp vô cùng”.

Những kỷ vật dưới căn hầm D66 (hầm Cơ yếu) trong khuôn viên Hoàng Thành Thăng Long.
Chính trong sự chia sẻ ấy, những người lính cơ yếu đã biến hầm sâu thành mái nhà. Một mái nhà đặc biệt, nơi tuổi trẻ, hạnh phúc riêng tư nhiều khi bị gác lại phía sau. Như bà Yểng, cưới chồng cũng trong ngành, chỉ có một “đêm tân hôn” giản dị, sáng hôm sau đã lại vào ca trực.
“Làm cơ yếu phải tuyệt đối trung thành, tuyệt đối giữ bí mật. Chúng tôi hiểu điều đó và chấp nhận hy sinh”, bà nói.
Trong chiến tranh, cái chết luôn rình rập. Nhưng giữa khốc liệt, với những người lính cơ yếu, được cống hiến lại là niềm vinh dự. “Khốc liệt là vậy, mất mát là vậy, nhưng chúng tôi chưa bao giờ coi đó là nỗi sợ. Trái lại, được ngồi dưới hầm, được viết, được dịch, được truyền đi mệnh lệnh của Tổ quốc, đó là tự hào, là vinh dự suốt đời”, ông Nguyễn Văn Song xúc động nói.
Ngày nay, khi hầm cơ yếu được tu bổ, mở cửa đón khách tham quan, nhiều cựu chiến binh trở lại, rưng rưng nhớ lại ký ức. Họ nhìn lại những bức tường thấp, những lối đi hẹp, những bàn làm việc cũ kỹ, tất cả như còn nguyên hơi thở năm xưa.
Ông Song nói: “Hầm này gần như giữ nguyên trạng. Nhắm mắt lại, tôi vẫn hình dung rõ đâu là hầm cá nhân, đâu là hầm tập thể. Những ca trực đêm dài, những trận bom rung chuyển, tất cả còn vẹn nguyên trong ký ức”.
Đi qua chiến tranh, họ bình dị trở về đời thường, không huân chương chói lòa, không nhiều người biết tên. Nhưng chính họ - những người viết nên từng dòng cơ yếu đã góp phần làm nên chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”.
Với thế hệ trẻ hôm nay, Di tích căn hầm cơ yếu là minh chứng sống động về một lớp người đã cống hiến thầm lặng, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Nhân dân. Họ đã giữ vững “mạch máu thông tin”, điều kiện để bầu trời Hà Nội trụ vững trước bom B52, để đất nước đi đến thắng lợi cuối cùng.
“Chúng tôi mong rằng khi bước chân vào căn hầm này, thế hệ mai sau sẽ hiểu cha ông mình từng sống và làm việc trong điều kiện gian khổ như thế nào. Và từ đó, trân trọng hơn, biết ơn hơn, sống có trách nhiệm hơn với Tổ quốc hôm nay”, bà Dương Thị Bột gửi gắm.
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng bước chân của những người lính cơ yếu vẫn in đậm trong lịch sử. Dưới hầm sâu, họ từng sống và làm việc trong lặng thầm, không danh xưng hào nhoáng, không ai biết mặt. Nhưng chính họ đã bảo đảm cho từng mệnh lệnh chỉ huy thông suốt, góp phần làm nên chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”.
Khói lửa đã tan, nhưng ký ức ấy sẽ mãi còn, như những con chữ bất tử giữ bầu trời Hà Nội năm 1972.
Bằng bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, trải qua 12 ngày đêm chiến đấu, quân và dân miền Bắc đã bắn rơi tổng cộng 81 máy bay Mỹ các loại, trong đó có 34 chiếc B-52, bắt sống nhiều giặc lái.






