Di sản hợp tác quý giá và yêu cầu thay đổi mạnh mẽ
Tại Diễn đàn khoa học Việt - Nga về xúc tiến công nghiệp, công nghệ và đổi mới sáng tạo diễn ra chiều 20/11, TS. Hoàng Trường, Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách Công Thương, Bộ Công Thương nhận định, hợp tác đào tạo nhân lực là một trong “di sản” của quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga.
Suốt hơn bảy thập kỷ, hợp tác đào tạo nhân lực giữa Việt Nam và Liên bang Nga (trước đây là Liên Xô) luôn được xem là một trong những trụ cột bền vững nhất trong quan hệ song phương. Hàng chục nghìn kỹ sư, trí thức Việt Nam trưởng thành từ môi trường giáo dục Nga đã góp phần hình thành và phát triển những ngành công nghiệp nền tảng của đất nước. Bước vào kỷ nguyên chuyển đổi số, sự hợp tác này tiếp tục đứng trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ, hướng đến đào tạo nguồn nhân lực có thể làm chủ công nghệ, đáp ứng tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

TS. Hoàng Trường, Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách Công Thương, Bộ Công Thương. Ảnh: Lê An
TS. Hoàng Trường cũng nhấn mạnh, quan hệ Việt - Nga trong lĩnh vực khoa học công nghệ và phát triển nhân lực là một “di sản” quý báu, không chỉ để tự hào mà còn phải biết khai thác tối đa giá trị trong giai đoạn phát triển mới.
Nhìn lại lịch sử, từ những năm 1950 đến đầu thập niên 1990, nước bạn Liên Xô đã tiếp nhận và đào tạo khoảng 52.000 công dân Việt Nam thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau. Trong số đó, có 30.000 kỹ sư, 3.000 tiến sĩ và 200 tiến sĩ khoa học, trở thành lực lượng ưu tú của các ngành năng lượng, cơ khí, vật liệu, hóa chất vốn là những lĩnh vực đóng vai trò trụ cột đối với công nghiệp Việt Nam thời kỳ đầu xây dựng đất nước.
Những kỹ sư dầu khí của Vietsovpetro, những chuyên gia góp công xây dựng thủy điện Hòa Bình, hay thế hệ sinh viên Việt Nam đang học tập tại những trường đại học hàng đầu của Nga hiện nay là minh chứng cho một mô hình hợp tác thực chất và hiệu quả.
Thế nhưng, bối cảnh phát triển hiện nay đã thay đổi nhanh chóng và sâu rộng. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cùng sự trỗi dậy của AI và kinh tế số, đang đòi hỏi nguồn nhân lực không chỉ vững lý thuyết mà phải có năng lực sáng tạo công nghệ mới. Liên bang Nga có thế mạnh về toán, vật lý, cơ khí chế tạo, năng lượng hạt nhân, hàng không vũ trụ, vật liệu mới. Trong khi đó, Việt Nam đang dồn lực triển khai các nghị quyết về phát triển khoa học và công nghệ, chuyển đổi số, xây dựng nền công nghiệp tự chủ.
“Hai nhu cầu gặp nhau ở một điểm cần một mô hình hợp tác đào tạo mới, cập nhật hơn, hiện đại hơn và linh hoạt hơn”, TS. Hoàng Trường bày tỏ.
Chuyển từ hợp tác đào tạo số lượng sang chất lượng
Dù sở hữu nền tảng bền vững, hợp tác phát triển nhân lực Việt - Nga, trong những năm gần đây vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. TS. Hoàng Trường chỉ ra những hạn chế cụ thể: Chương trình đào tạo chậm đổi mới, thiếu sự cập nhật về công nghệ mới; các ngành mũi nhọn như tự động hóa thông minh, công nghệ vũ trụ, vật liệu mới chưa được chú trọng đúng mức.

Diễn đàn khoa học Việt - Nga về xúc tiến công nghiệp, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Ảnh: Lê An
Mô hình liên kết song bằng với công nhận chuẩn đầu ra quốc tế chưa phổ biến. Vai trò doanh nghiệp trong đào tạo và sử dụng nhân lực còn mờ nhạt. Điểm nghẽn ngôn ngữ khi thế hệ hiểu sâu tiếng Nga chuyên ngành đang dần nghỉ hưu, lớp trẻ thiếu nền tảng để tiếp nối.
Cùng đó là thiếu cơ sở dữ liệu thống kê về sinh viên, nghiên cứu sinh và khả năng sử dụng nhân lực sau đào tạo. Cơ chế đãi ngộ và môi trường nghiên cứu chưa đủ sức giữ chân chuyên gia giỏi. Bên cạnh đó, dịch COVID-19 từng gây gián đoạn nhiều chương trình đào tạo nghiên cứu sinh, ảnh hưởng tiến độ bảo vệ luận án và chất lượng đầu ra.
“Nếu không nhanh chóng khắc phục, những yếu tố này sẽ kìm hãm tốc độ phát triển hợp tác đào tạo trong giai đoạn mới”, TS. Hoàng Trường nhìn nhận.
Đặt trong chiến lược phát triển công nghiệp và an ninh công nghệ quốc gia, hợp tác nhân lực với Liên bang Nga tiếp tục được đánh giá là trụ cột ưu tiên. Đại diện Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách Công Thương cũng đề xuất các giải pháp: Nâng cấp và mở rộng chương trình liên kết đào tạo, đặc biệt ở các lĩnh vực công nghệ mới, gắn với chuẩn đầu ra quốc tế.
Thành lập các trung tâm hợp tác nghiên cứu, đào tạo về công nghệ mũi nhọn, kết hợp đào tạo với chuyển giao kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Doanh nghiệp phải tham gia từ sớm, từ định hướng đào tạo đến cấp học bổng và tiếp nhận nhân lực.
Đổi mới phương thức đào tạo theo mô hình kép sinh viên vừa học vừa thực hành trong dự án công nghiệp thực tế. Khơi thông rào cản tiếng Nga chuyên ngành, đào tạo thế hệ chuyên gia trẻ song ngữ chất lượng cao. Tạo hành lang pháp lý và tài chính ổn định, khuyến khích nghiên cứu chuyên sâu, giữ chân chuyên gia.
Triển vọng hợp tác càng rõ khi Việt Nam đẩy mạnh phát triển các ngành: Năng lượng tái tạo, công nghệ vật liệu, cơ khí chính xác, công nghệ quốc phòng dân dụng, tự động hóa, chuyển đổi số trong công nghiệp… Đây đều là lĩnh vực Liên bang Nga có ưu thế đào tạo và nghiên cứu mạnh.
TS. Hoàng Trường khẳng định hy vọng hợp tác khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực ngành Công Thương Việt - Nga sẽ bứt phá mạnh mẽ trong thời gian tới. Đó không chỉ là kế hoạch, mà là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh cạnh tranh công nghệ toàn cầu gắt gao và đòi hỏi tự chủ sản xuất ngày càng cao.
“Di sản 70 năm tạo dựng không chỉ để lưu giữ mà tiếp tục trở thành chất xúc tác cho sự lớn mạnh của thế hệ trí thức công nghiệp mới, thế hệ có đủ bản lĩnh và tri thức để làm chủ công nghệ cao, đưa Việt Nam tiến nhanh và vững chắc hơn trên con đường công nghiệp hóa”, vị TS bày tỏ.
TS. Hoàng Trường, Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách Công Thương: Hợp tác phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ Việt - Nga giai đoạn 2026 - 2035 hướng tới hình thành đội ngũ chuyên gia có khả năng tiếp nhận, làm chủ và thương mại hóa công nghệ trong các lĩnh vực trụ cột của ngành Công Thương. Mục tiêu là xây dựng mạng lưới trung tâm hợp tác chuyên ngành, các chương trình đào tạo liên kết chất lượng cao và các dự án chuyển giao công nghệ gắn thực hành tại chỗ.






