Longform
19/11/2025 10:36
Xã hội

Longform | Giáo dục nghề nghiệp: Định hình chiến lược nguồn nhân lực quốc gia: Kỳ 1

Thứ Tư, 19/11/2025 10:36:00 +07:00

(Công Thương) - Khi nhiều ngành kinh tế mới khát nhân lực kỹ năng nghề , giáo dục nghề nghiệp giữ vai trò then chốt trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia.

Longform | Giáo dục nghề nghiệp: Định hình chiến lược nguồn nhân lực quốc gia: Kỳ 1 - 1

 

Xã hội vẫn coi bằng đại học là thước đo, trong khi nhiều ngành kinh tế mới khát nhân lực kỹ năng nghề. Khi “thừa thầy, thiếu thợ” trở thành rào cản phát triển sẽ kéo theo nhiều hệ luỵ, tạo gánh nặng lớn cho nền kinh tế. “Nghịch lý” của thị trường lao động hiện đòi hỏi những giải pháp căn cơ, trong đó giáo dục nghề nghiệp giữ vai trò then chốt trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia.

Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nguồn nhân lực chất lượng cao được xem là “chìa khóa vàng” để Việt Nam hội nhập và phát triển bền vững. Tuy nhiên, theo Cục Thống kê, tính đến cuối năm 2024, cả nước vẫn còn gần 38 triệu lao động chưa qua đào tạo. Con số này cho thấy thách thức không nhỏ trong việc nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người lao động. Điều này tạo ra khoảng trống lớn về chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt trong các ngành kinh tế trọng điểm của đất nước như công nghệ thông tin, năng lượng tái tạo, công nghiệp bán dẫn, logistics, dệt may, da giày, cơ khí, thương mại, dịch vụ…

Longform | Giáo dục nghề nghiệp: Định hình chiến lược nguồn nhân lực quốc gia: Kỳ 1 - 2

 

Thực tế, không thể phủ nhận, nhân lực nghề không chỉ là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên bản đồ thế giới. Hiện nay, chất lượng lao động đã cải thiện, với tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 65%, nhưng vẫn còn khoảng cách so với các nước phát triển. Đơn cử, tại một số lĩnh vực công nghiệp trọng yếu của ngành Công Thương nguồn nhân lực vẫn thiếu hụt trầm trọng.

Minh chứng, như ngành cơ khí và công nghiệp hỗ trợ, theo Hiệp hội Cơ khí Việt Nam, đến năm 2025, ngành ô tô và cơ khí cần khoảng 700.000 lao động kỹ thuật, nhưng mới chỉ đáp ứng được 30 - 40%. Ngành thương mại dịch vụ và logistics Việt Nam, đến năm 2030, cần 2,2 triệu lao động, nhưng mới đáp ứng được 40%. Nghĩa là khoảng 1,32 triệu lao động chất lượng cao đang còn thiếu hụt. Riêng năm 2025, nhóm bán hàng, kinh doanh thiếu hụt 47,6% so với nhu cầu, tăng 8,3% so với năm 2024. Với ngành dệt may và da giày, ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, song mỗi năm các doanh nghiệp lại mất khoảng 10% lao động do biến động việc làm.

Xa hơn, đến năm 2030, ngành cơ điện tử sẽ cần khoảng 1,2 triệu lao động. Lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghệ cao là lĩnh vực “khát” nhân lực nhất. Việt Nam cần bổ sung 500.000 lao động IT đến năm 2025, song hiện mỗi năm vẫn thiếu khoảng 100.000 -150.000 kỹ sư công nghệ thông tin có kỹ năng cao.

Longform | Giáo dục nghề nghiệp: Định hình chiến lược nguồn nhân lực quốc gia: Kỳ 1 - 3

 

Đơn cử tại Công ty TNHH LG Display Việt Nam nhu cầu thiếu hụt nhân lực kỹ thuật có tay nghề, trình độ cũng là một trong những vấn đề nan giải. Ông Nguyễn Thành Hiếu, Trưởng phòng Tuyển dụng Công ty TNHH LG Display Việt Nam chia sẻ, hiện nay, nhu cầu về nguồn nhân lực kỹ thuật đang tăng rất nhanh. Ngay tại LG Display Việt Nam luôn có nhu cầu tìm kiếm nhân sự tay nghề. Điều này không chỉ mở ra cơ hội lớn cho sinh viên nói chung, mà đặc biệt là cho các học sinh, sinh viên ở khu vực vùng sâu, vùng xa.

“Với xu hướng phát triển mạnh mẽ của công nghệ tại Việt Nam cùng dòng vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục gia tăng, các ngành kỹ thuật và các lĩnh vực hỗ trợ cho ngành Công Thương đang trở thành lựa chọn giàu tiềm năng, giúp các em vừa phát triển bản thân, vừa đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước” – ông Hiếu nói.

Longform | Giáo dục nghề nghiệp: Định hình chiến lược nguồn nhân lực quốc gia: Kỳ 1 - 4

 

Nhu cầu nguồn nhân lực đáp ứng thực tiễn là rất lớn, song thực tế cho thấy, công tác tuyển sinh ở các trường nghề nói chung, các trường nghề ngành Công Thương nói riêng đã và đang đặt ra nhiều thách thức. Chia sẻ về nhu cầu tuyển sinh hiện nay, ông Khuất Quang Tuấn, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Công nghiệp cho biết, nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực lớn của ngành Công Thương, hiện Trường đang đào tạo các ngành như công nghệ điện tử, công nghệ may, cơ khí và công nghệ thông tin, đáp ứng nhu cầu nhân lực tại Thái Nguyên nói chung và cho ngành nói riêng.

Để tuyển sinh, nhà trường đã triển khai nhiều giải pháp như truyền thông và đến tận các điểm trường chiêu sinh. Hiện trường tập trung chủ yếu tuyển sinh tại các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng đồng bào dân tộc. Tuy nhiên, thực tế công tác tuyển sinh gặp nhiều khó khăn.

"Một phần nguyên nhân vẫn còn tồn tại rào cản về nhận thức xã hội. Nhiều phụ huynh và học sinh vẫn đặt nặng tâm lý phải học đại học, hoặc sau THPT phải đi làm ngay, mà chưa thực sự đánh giá đúng vai trò của kỹ năng nghề trong thị trường lao động hiện nay. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, nhất là khi Việt Nam thu hút các dự án đầu tư có hàm lượng công nghệ cao, rất nhiều doanh nghiệp đang có nhu cầu tuyển dụng lớn đối với nhóm lao động kỹ thuật. Do đó, việc có một lực lượng lao động kỹ thuật được đào tạo bài bản là yếu tố quyết định" - ông Tuấn nêu. 

Longform | Giáo dục nghề nghiệp: Định hình chiến lược nguồn nhân lực quốc gia: Kỳ 1 - 5

 

Longform | Giáo dục nghề nghiệp: Định hình chiến lược nguồn nhân lực quốc gia: Kỳ 1 - 6

 

Thực tế, để chuẩn bị cho giáo dục nghề nghiệp bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên nâng cao chất lượng, chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, thời gian qua, nhiều địa phương đã chủ động xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực gắn với quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội và nhu cầu lao động của doanh nghiệp. Nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã mạnh dạn đổi mới mô hình quản trị, tăng cường hợp tác doanh nghiệp, triển khai đào tạo theo chuẩn kỹ năng nghề quốc gia và khu vực, từng bước tiếp cận chuẩn đào tạo của các nước tiên tiến.

Đặc biệt, tư duy về đào tạo nghề đã thay đổi, từ chỗ coi đây là “lựa chọn thứ hai” của người học, đến nay giáo dục nghề nghiệp đã khẳng định rõ vị thế là con đường đào tạo thực học, thực nghề, việc làm thực, thu nhập thực, góp phần quan trọng vào phát triển nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế mũi nhọn, các khu công nghiệp, khu kinh tế trọng điểm và các lĩnh vực mới như kinh tế số, kinh tế xanh, logistics, trí tuệ nhân tạo, công nghệ bán dẫn. Mặc dù những nỗ lực của địa phương đã đạt được những kết quả nhất định, song, nhu cầu lao động nghề vẫn chưa đáp ứng thực tiễn. 

Các nền tảng tuyển dụng và khảo sát thị trường lao động cho biết, năm 2024–2025, các nhóm ngành “nóng” tuyển dụng nhiều là: thương mại - bán hàng, logistics, vận tải, IT và kỹ thuật sản xuất. Nhóm này cũng là nơi doanh nghiệp có mức độ quan tâm hồ sơ ứng tuyển cao nhất. Ngược lại, tỉ lệ sinh viên đại học tốt nghiệp làm việc trái ngành hoặc gặp khó khăn trong tìm việc có xu hướng gia tăng, dẫn tới lãng phí nguồn lực đào tạo và áp lực thất nghiệp cử nhân.

Longform | Giáo dục nghề nghiệp: Định hình chiến lược nguồn nhân lực quốc gia: Kỳ 1 - 7

 

Ba lý do chính tạo nên trạng thái “khát” nhân lực tay nghề được các chuyên gia chỉ ra. Một là, chuyển dịch công nghệ và mô hình sản xuất: Tự động hóa, chuỗi cung ứng số, thương mại điện tử và yêu cầu sản xuất xanh đòi hỏi người lao động có kỹ năng chuyên sâu, sẵn sàng vận hành máy móc, quản lý kho tự động, hoặc vận hành hệ thống năng lượng tái tạo. 

Tốc độ tăng trưởng của các ngành dịch vụ số: Thương mại điện tử bùng nổ kéo theo nhu cầu lớn về nhân lực kho vận, giao nhận chặng cuối, chăm sóc khách hàng đa nền tảng và quản trị nền tảng số. Số liệu sàn thương mại cho thấy khối lượng giao dịch và số lượng người bán tăng nhanh, đòi hỏi hệ thống nhân lực logistics lớn và chất lượng. 

Yêu cầu xanh hoá và chứng nhận quốc tế: Nhiều đối tác nhập khẩu yêu cầu tiêu chuẩn môi trường, giảm phát thải, truy xuất nguồn gốc; doanh nghiệp phải có nhân lực đủ năng lực vận hành quy trình xanh, quản lý chất thải, và thực hiện kiểm kê khí nhà kính. Điều này tạo thêm yêu cầu về kỹ năng nghề cho lao động trong ngành sản xuất, chế biến và cung ứng dịch vụ. 

Ông Trương Anh Dũng - Cục trưởng Cục Giáo dục nghề nghiệp và Giáo dục thường xuyên (Bộ Giáo dục và Đào tạo) nhấn mạnh, mục tiêu phấn đấu đến 2030 giáo dục nghề nghiệp cơ bản đáp ứng nhu cầu thị trường, tăng tỷ lệ người học nghề có việc làm và năng lực nghề đáp ứng yêu cầu công nghiệp 4.0. Các chính sách giai đoạn 2021–2030 tập trung hoàn thiện khung pháp lý, thúc đẩy liên kết doanh nghiệp, nhà trường và khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất cho trường nghề.

Longform | Giáo dục nghề nghiệp: Định hình chiến lược nguồn nhân lực quốc gia: Kỳ 1 - 8

 

Để giải quyết thách thức, chuyển đổi tư duy xã hội và giải quyết nhu cầu nhân lực kỹ thuật cho nền kinh tế, theo ông Tô Xuân Giao - Phó Chủ tịch Hiệp hội các trường cao đẳng nghề nghiệp ngoài công lập Việt Nam cho biết, cần những giải pháp đồng bộ.

Một là, nâng tầm giáo dục nghề: hoàn thiện luật, chương trình đào tạo linh hoạt, công nhận kỹ năng theo chứng chỉ và cho phép mô hình “học - việc” song song. Dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp sửa đổi và các chính sách truyền thông đã thể hiện định hướng này.

Hai là, liên kết mạnh doanh nghiệp - nhà trường: thúc đẩy mô hình đào tạo theo đơn đặt hàng, doanh nghiệp tham gia thiết kế chương trình, thực hành tại xưởng, trả lương thực tập để học viên vừa học vừa làm; điều này giúp giảm khoảng cách kỹ năng. Nhiều trường cao đẳng đã thử nghiệm thành công mô hình này và đưa sinh viên vào làm ngay sau tốt nghiệp. 

Ba là, khuyến khích nghề xanh và nghề số: ưu đãi cho các chương trình đào tạo về năng lượng tái tạo, kỹ thuật số, logistics xanh; phối hợp chương trình tín dụng xanh, hỗ trợ thiết bị đào tạo cho trường nghề. Bộ Công Thương và các tổ chức quốc tế đang triển khai các chương trình hỗ trợ kỹ thuật cho doanh nghiệp và trường nghề. 

Bốn là, thay đổi nhận thức xã hội: truyền thông về cơ hội nghề nghiệp, đưa câu chuyện thành công của học viên nghề lên mặt báo, khuyến khích doanh nghiệp công khai lộ trình tuyển dụng từ trường nghề.

Longform | Giáo dục nghề nghiệp: Định hình chiến lược nguồn nhân lực quốc gia: Kỳ 1 - 9

 

Xác định tầm quan trọng của giáo dục nghề nghiệp là một trong những trụ cột then chốt để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới, chỉ đạo tại Hội nghị Giáo dục nghề nghiệp và Giáo dục thường xuyên năm 2025 mới đây, Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh, lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên cần tiếp tục khẳng định và phát huy vai trò then chốt của mình trong chiến lược phát triển đất nước. Giáo dục nghề nghiệp không chỉ là nơi đào tạo kỹ năng nghề cho người học, mà sẽ là “xương sống” của hệ thống phát triển nhân lực quốc gia, góp phần trực tiếp làm tăng năng suất lao động, năng lực cạnh tranh và sức sáng tạo của nền kinh tế. 

Theo đó, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh: "Để giáo dục nghề nghiệp đóng góp lớn vào hệ thống phát triển nhân lực quốc gia, cần phát huy vai trò và trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó nhà trường là trung tâm, nhà giáo là nhân tố quyết định, gia đình là nền tảng và xã hội là môi trường hỗ trợ. Mỗi nhà trường cần thực sự trở thành nơi nuôi dưỡng tinh thần nghề nghiệp, sáng tạo và khát vọng vươn lên của người học. Mỗi nhà giáo phải là tấm gương mẫu mực về năng lực, nhân cách và đổi mới sáng tạo. Gia đình cần đồng hành, định hướng và khuyến khích con em lựa chọn con đường nghề nghiệp phù hợp. Toàn xã hội, từ doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội đến cộng đồng dân cư, cần chung tay, cùng đầu tư, cùng tạo dựng môi trường thuận lợi cho phát triển giáo dục nghề nghiệp và học tập suốt đời".

Longform | Giáo dục nghề nghiệp: Định hình chiến lược nguồn nhân lực quốc gia: Kỳ 1 - 10

 

Trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội mới với những định hướng chiến lược quan trọng. Các ngành kinh tế nói chung và các lĩnh vực ngành Công Thương nói riêng cũng đang đứng trước những cơ hội và thách thức lớn trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ theo xu hướng kinh tế xanh và chuyển đổi số. Đây không chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành mà còn là trách nhiệm chung của toàn xã hội trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực có năng lực, trình độ và kỹ năng phù hợp để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Theo đó, để gỡ điểm nghẽn từ nghịch lý thị trường lao động hiện nay, cần sự quyết liệt trong cải cách chính sách và sự chủ động nhập cuộc của hệ thống các trường nghề nói chung, doanh nghiệp nói riêng, cũng như sự chung tay của toàn xã hội. 

Kỳ 2: Xây dựng khung năng lực xanh, số đáp ứng hội nhập

Có thể bạn quan tâm