Nhà tù Sơn La - Chứng tích hào hùng của cách mạng Việt Nam: Kỳ 1: Địa ngục trần gian Nhà tù Sơn La - Chứng tích hào hùng của cách mạng Việt Nam: Kỳ 2: Cuộc đấu tranh tuyệt thực 12 ngày đêm |
Học trên những tảng đá, sàn xi măng, sàn gỗ đầy rệp
Với mục tiêu biến Nhà tù Sơn La thành địa ngục để giam cầm, đày đọa, làm tiêu hao sinh lực và thủ tiêu ý chí đấu tranh của những chiến sĩ cộng sản, song vượt lên trên gông cùm và tội ác của thực dân Pháp, những người cộng sản Việt Nam đã có những cuộc đấu tranh phản đối cai ngục Ga-Bô-Ri đánh đập tù nhân một cách dã man; tự ý cấm người tù xuống suối tắm giặt; không cho họ tự quản bếp ăn; bớt xén trắng trợn khẩu phần ăn của tù nhân. Đỉnh điểm, là cuộc đấu tranh tuyệt thực kéo dài 12 ngày đêm của những người tù chính trị phạm ở Sơn La.
Tại đây, những người chiến sĩ yêu nước đã biến nhà tù khét tiếng này trở thành một trường học cách mạng vĩ đại. |
Theo tài liệu của Bảo tàng tỉnh Sơn La, trong tình thế không thể liên lạc được với Trung ương Ðảng và bị cô lập giữa chốn lao tù khổ sai, những người cộng sản vẫn hướng về Ðảng, tổ chức hoạt động bí mật... Vào cuối tháng 12/1939, các đảng viên trong tù đã thảo luận về việc thành lập tổ chức cơ sở Ðảng. Ban chi ủy lâm thời được thành lập gồm 10 đồng chí do đồng chí Nguyễn Lương Bằng làm Bí thư chi bộ. Ðến tháng 2/1940, chi bộ chuyển thành chính thức do đồng chí Trần Huy Liệu làm Bí thư, đồng chí Tô Hiệu làm Ủy viên.
Cũng chính nơi ngục tù tăm tối này đã tôi luyện cho đất nước những nhà lãnh đạo xuất sắc như: Lê Duẩn, Trường Chinh, Tô Hiệu, Văn Tiến Dũng, Xuân Thủy, Trần Huy Liệu, Nguyễn Cơ Thạch, Mai Chí Thọ, Trần Quốc Hoàn, Hoàng Thế Thiện… |
Đặc biệt, tại trại giam 2 gian có diện tích 40m2, là nơi thực dân Pháp giam cầm tù nhân chính trị án nặng như: Đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Đình Dong... để cách ly dễ bề kiểm soát, chúng biết đây là những tù nhân cộng sản quan trọng và liệt vào danh sách cần kiểm soát gắt gao. Nhưng đây chính là nơi thành lập chi bộ Nhà tù Sơn La, đa số cấp ủy chi bộ đều ở trong trại giam này, là địa điểm diễn ra các cuộc họp chi bộ, cấp ủy để ban hành các nghị quyết quan trọng lãnh đạo, chỉ đạo tù nhân đấu tranh chống chế độ tù đày hà khắc của thực dân, gây dựng phong trào cách mạng trong và ngoài nhà tù.
Thực hiện chủ trương của chi bộ Nhà tù Sơn La “Biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng”. Nhiệm vụ cấp bách đặt ra của chi bộ nhà tù ngay khi mới thành lập là phải tổ chức học tập. Nhiệm vụ này được các tù nhân hưởng ứng rất nhiệt tình, kể các đồng chí ốm nặng, cái chết như kề bên. Tuy trình độ cao thấp khác nhau, nhưng ai cũng cần thấy phải học tập chính trị, văn hóa để nâng cao sự hiểu biết. Theo đó, học tập chính trị và văn hóa là hai yêu cầu cấp bách trước mắt, để phù hợp với điều kiện sinh hoạt trong tù, lớp học phải tổ chức gọn nhẹ, thành từng nhóm nhỏ.
Đồng chí Xuân Thuỷ đã kể về không khí học tập sôi nổi của tù nhân chính trị ở Nhà tù Sơn La lúc bấy giờ: "Sau giờ lao động nặng nhọc, trên những tảng đá, sàn xi măng, sàn gỗ đầy rệp, từng đám người rất náo nhiệt, chỗ này học văn hoá, chỗ kia học chính trị, chỗ nọ nhóm binh vận, dân vận, đây là Ban biên tập báo Suối reo..." .
Tài liệu huấn luyện do đồng chí Tô Hiệu, Lê Thanh Nghị, Trần Đình Long... soạn thảo. Do việc học trong tù rất phức tạp và mạo hiểm nên tất cả các tài liệu đều phải viết bằng mẩu giấy nhỏ, giấy cuốn thuốc lá để dễ cất giấu và thủ tiêu khi bị lộ.
Đồng thời với việc học chính trị, anh em tù nhân còn phải học văn hóa, trừ một số đồng chí đã cao tuổi còn lại đều tham gia học tập, các lớp học được tổ chức tùy theo trình độ. Các đồng chí có trình độ khá thì tiếp tục học cao hơn, học thêm ngoại ngữ: Tiếng Nga, Pháp, Trung Quốc.
Bộ cùm chân trong một phòng giam. |
Ngoài ra, anh em tù chính trị còn phải học quân sự và học tiếng Thái để tiếp xúc với đồng bào, tuyên truyền đường lối cách mạng và gây dựng cơ sở cách mạng ở bên ngoài nhà tù.
Nhờ việc học tập trong tù, trình độ anh em tù nhân được nâng cao, nhiều đồng chí khi vào tù chưa biết chữ, sau một thời gian ngắn đã đọc thông viết thạo chữ Quốc ngữ, nói thông thạo tiếng Thái, có đồng chí còn biết hát tiếng Thái, được bồi dưỡng về đường lối quân sự, chiến thuật du kích, đặc biệt là kinh nghiệm công tác.
Đồng chí Ngô Gia Khảm đã ghi lại trong hồi ký của mình: “Nhà tù Sơn La thật là một trường học lớn với tôi, ở đây tôi học đọc, học viết, học lý luận về Chủ nghĩa Cộng sản, học kinh nghiệm đấu tranh, khắc sâu vào trong xương tủy mối thù đế quốc, vững tin hơn bao giờ hết ở sự tất thắng của cách mạng”. |
Tiêu biểu là đồng chí Nguyễn Văn Trân - nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng là người học rất giỏi tiếng Thái. Năm 1942 đồng chí đã sáng tác bài hát tiếng Thái để tuyên truyền và vận động nhân dân đoàn kết đứng lên chống lại ách thống trị của thực dân Pháp và quan tạo phìa phản động địa phương.
Với phương pháp người biết nhiều dạy cho người biết ít, người biết ít dạy cho người không biết, không khí thi đua học tập sôi nổi trình độ anh em tù nhân từng bước được nâng cao. Chi bộ đã biến nhà tù đế quốc trở thành trường học cách mạng. Sau này khi thoát ngục, những bài học trong Nhà tù Sơn La đã được các đồng chí áp dụng hiệu quả trong công cuộc lãnh đạo cách mạng và xây dựng đất nước.
Bên cạnh đó, để có thể tiếp cận các thông tin từ phía cai ngục, nắm được cai ngục cần tuyển chọn tù nhân tháo vát để giúp đỡ thêm việc bàn giấy, chi bộ đã đào tạo một số anh em biết tiếng Pháp, tin cậy để cài vào đội giúp việc cho cai ngục như: đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Lê Đức Thọ,… Vì vậy, nhiều thông tin quan trọng đã được báo cáo về chi bộ kịp thời ứng phó.
Tăng gia sản xuất kinh tế, đảm bảo đời sống vật chất
Sau khi chi bộ Nhà tù Sơn La ra đời, cấp ủy chi bộ duy trì sinh hoạt thường kỳ, thống nhất ra nghị quyết lãnh đạo toàn diện hoạt động của tù nhân. Đồng thời tổ chức Đại hội đại biểu tù nhân, tiến hành thảo luận sôi nổi, thông qua quy chế tổ chức chung để đi đến thống nhất lập ra một cơ quan tự quản của tù chính trị gọi là Ủy ban Hàng trại (Ủy ban nhà tù).
Đây là cơ quan cao nhất điều hành hoạt động của tù nhân giữa hai kỳ đại hội, Ủy ban có nhiệm vụ tổ chức thực hiện nghị quyết đại hội, làm công tác đối ngoại, đồng thời chỉ đạo các ban cơ sở, gồm: Ban Khánh tiết, Ban Trật tự trong, Ban Trật tự ngoài, Ban Kinh tế, Ban Cứu tế, Ban Tuyên truyền, Ban Huấn luyện, Ban Dân vận, Ban Văn hóa, Ban Tù vận và tổ Hồng thập tự.
Mỗi Ban đều có một chức năng, cử người phụ trách riêng nhưng tựu chung hoạt động hướng đến sự đoàn kết, kỷ luật trong tù, duy trì mối quan hệ với đồng bào địa phương. Đặc biệt, chi bộ ra đời, đề cao việc cải thiện đời sống vật chất cho tù nhân, vì vậy, hoạt động của Ban Kinh tế được chú trọng.
Nơi tháp canh của lính gác |
Ban kinh tế đề ra kế hoạch tương đối toàn diện nhưng vì không nắm được kho gạo nhà tù nên tiêu chuẩn của anh em bị chúng ăn bớt, ta phải tìm cách nắm được khâu này, Ban đã giao cho đồng chí có trách nhiệm, tháo vát để lo toan.
Từ đó, bữa ăn của tù nhân đã khá hơn, khẩu phần ăn đảm bảo đúng tiêu chuẩn, không bị bọn sếp ngục, giám thị ăn bớt. Gạo do tù nhân tự xay, giã nên đảm bảo được chất lượng. Nhưng hạt gạo rơi vãi, tấm cám và những bao gạo mốc, tù nhân đã đấu tranh không ăn, dùng để chăn nuôi.
Nếu trong những năm 1930-1939, cứ trung bình 1 tháng có 1 người chết thì trong 5 năm 1940-1945 chỉ 07 người chết. Điều đó chứng tỏ việc cải thiện đời sống, bảo vệ sức khỏe do chi bộ nhà tù tổ chức đã đạt được những thành công đáng kể, góp phần vào thành công của quá trình đấu tranh cách mạng trong nhà tù. |
Và tuy ở trong tù nhưng tù nhân đã nuôi được lợn, gà, thậm chí nuôi được cả bò. Hai bên dòng suối Nậm La, tù nhân trồng được nhiều rau xanh, ăn không hết, đem ủng hộ nhân dân, các bản xung quanh nhà tù hoặc cho các gia đình binh lính có thiện cảm với cách mạng... những hoạt động đó cải thiện được bữa ăn cho tù nhân.
Ngoài ra, Ban Kinh tế còn tổ chức làm hàng thủ công mỹ nghệ như đan rổ, rá, làm guốc mộc, khâu giày, làm bàn chải, lược, hoa giấy... Hàng làm tốt được mang ra bán ở phố chợ Chiềng Lề, số tiền thu được chia theo tỉ lệ: Nộp quỹ kinh tế sử dụng chung: 25%; nộp quỹ cứu tế: 15%, người làm ra sản phẩm được hưởng: 60%.
Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, Ban kinh tế tổ chức tăng gia, chăn nuôi và các nghề phụ ngày càng phát triển trở thành nguồn thu nhập lớn của tập thể tù chính trị. Năm 1942, Quỹ Kinh tế nhà tù lên tới 4.000 đồng tiền Đông Dương và đây là chiếc hòm đựng tiền của nhà tù Sơn La. Trong hồi ký của mình, tù nhân chính trị kể lại: Chúng tôi làm 1 cành hoa giấy bán được 3 hào, trong khi đó mua 1 chục trứng vịt, 1 nải chuối chỉ có 8 xu, nên cải thiện tốt đời sống cho tù nhân.
Ban kinh tế hoạt động hiệu quả, thuốc chữa bệnh được mua dự trữ. Những đồng chí ốm nặng hay vừa ốm dậy hoặc vì đấu tranh bi bắt giam ở hầm ngầm thì được hưởng chế độ bồi dưỡng đặc biệt, ăn cơm “cứu tế” ngoài 2 bữa ăn còn được ăn thêm đường, sữa. Ban cứu tế có tủ thuốc riêng do đồng chí Nguyễn Lương Bằng (Sao đỏ) phụ trách.
Bên cạnh việc cấp tốc học chính trị, tăng gia sản xuất, trong 5 công tác lớn của chi bộ đề ra, trong đó có công tác gây dựng cơ sở cách mạng ở bên trong và bên ngoài nhà tù. Nhờ đó, Ban Dân vận, Ban Binh vận đã thực hiện rất hiệu quả, đã vận động được cả công chức, binh lính, nhân dân địa phương.
Từ "địa ngục trần gian", bằng chủ trương đúng đắn, hoạt động của chi bộ được tổ chức chặt chẽ nên đầu năm 1943, Chi bộ nhà tù Sơn La đã giác ngộ và gây dựng được những cơ sở cách mạng đầu tiên ở bên ngoài nhà tù: Đó là hai tổ Thanh niên cứu quốc gồm Tổ thanh niên cứu quốc ở tỉnh lỵ và Tổ thanh niên cứu quốc Mường La.
Đáng lưu ý, Tổ thanh niên cứu quốc đã xuất bản Tờ báo "Lắc mướng" viết bằng chữ Thái và chữ quốc ngữ để tuyên truyền với nhân dân. Đây là những hạt giống đỏ đầu tiên đã gieo mầm cách mạng rộng khắp trên địa bàn tỉnh Sơn La.
Nơi ra đời của tờ báo “Suối Reo”
Đồng thời với việc cải thiện đời sống vật chất, chi bộ còn đặc biệt quan tâm, chăm lo đến đời sống tinh thần của tù nhân. Đội văn nghệ còn tự chế tạo nhạc cụ, sáng tác những bài hát, vở kịch mang ý nghĩa sâu sắc, gây dựng niềm tin cho anh em tù nhân với phong trào cách mạng. Đồng chí Đỗ Nhuận từng là đội trưởng đội văn nghệ của Chi bộ Nhà tù Sơn La. Sau này, ông là một nhạc sỹ nổi tiếng, là Tổng Thư ký đầu tiên của Hội Nhạc sỹ Việt Nam.
Toàn cảnh nhà tù nhìn từ tháp canh. |
Tổ viết báo Suối Reo xác định một địa điểm có khả năng giữ bí mật tốt nhất đó là hệ thống cầu tiêu trong trại giam lớn, hàng ngày giám thị đến kiểm tra nhưng không dám đến gần do sợ lây bệnh, nên tù chính trị ngụy trang một cầu tiêu để dành cho tổ làm báo. |
Dưới sự chỉ đạo, động viên của chi bộ, anh em tích cực tham gia các hoạt động văn nghệ. Ban Văn nghệ được thành lập, gồm nhiều tổ: thơ, ca, kịch, bích báo... Qua những đêm diễn văn nghệ đã thu hút được đông đảo binh lính, cai đội đến xem và thậm chí cả giám ngục, công sứ cũng có mặt. Đây cũng là cơ hội để các tù chính trị tuyên truyền đường lối cách mạng.
Tháng 5/1941, một sự kiện lớn, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của anh em tù nhân. Đó là sự ra đời của tờ báo “Suối Reo”. Lúc đầu, đồng chí Trần Huy Liệu được cử làm chủ bút, sau đó đến đồng chí Xuân Thủy. Đây là tờ báo bí mật viết tay nhằm phản ánh đời sống sinh hoạt mọi mặt của tù chính trị, giáo dục tinh thần đấu tranh ngoài xã hội và trong nhà tù, bồi dưỡng, rèn luyện ý chí, đạo đức cách mạng của người cộng sản.
Ban biên tập Báo Suối Reo đã tập hợp tất cả những bài viết của anh em trong tù, biên soạn, chép và xuất bản mỗi tháng hai số báo, mỗi số hai tờ. Giấy mực để viết báo trong tù hết sức khó khăn, anh em tù nhân đã phải đấu tranh, đòi quyền mỗi tháng gửi một lá thư về nhà và có quyền nhận thư từ, quà cáp người nhà gửi lên, một phần nữa là do cơ sở bên ngoài cung cấp.
Anh em câu được đường điện chạy qua nhà giam và mua angbun của người Hoa kiều đi buôn ở phố chợ Chiềng Lề, thắp sáng trong cầu tiêu để viết báo. Đồng chí Trần Huy Liệu sáng tác đôi câu thơ dí dỏm tặng cho anh em tổ làm báo: "Đi theo ánh sáng vào trong ấy/ Chỗ để văn chương phải nặng mùi".
Báo Suối Reo có nhiều thể loại bài viết. Ngoài nghị luận chính trị, tuyên truyền trên báo còn có chuyện ngắn, mục châm biếm, vui cười và đặc biệt rất nhiều thơ ca ngợi quê hương đất nước và tình cảm anh em tù nhân với gia đình, đồng đội và các cô gái Thái Sơn La. Báo Suối Reo không chỉ là sự sáng tạo, nhiệt huyết, đam mê và sự cống hiến của các chiến sỹ cách mạng, mà là món ăn tinh thần, cổ vũ, động viên rất lớn đối với anh em tù chính trị ở Nhà tù Sơn La.
Từ sự quyết tâm đấu tranh trên đã cho thấy, kẻ thù càng tàn bạo thì những người chiến sỹ cách mạng bị giam cầm trong Nhà tù Sơn La càng nung nấu thêm lòng căm thù, ý chí chiến đấu, tuyên truyền giác ngộ lòng yêu nước của binh lính, quần chúng nhân dân, xây dựng cơ sở cách mạng. Các chiến sỹ đã biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng, biến những phòng giam lạnh lẽo thành tổ ấm, thắm tình đồng chí của những bạn tù, đồng thời đem ánh sáng cách mạng lan tỏa khắp các nẻo vùng Tây Bắc.
Tiếp Kỳ 4: Cuộc vượt ngục ly kỳ