Người dẫn đường quan trọng trong hành trình giảm phát thải khí mê-tan

Khí mê-tan tuy tồn tại ngắn trong khí quyển nhưng lại là “nóng hổi” trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Ở Việt Nam, để đạt mục tiêu giảm ít nhất 30% phát thải mê-tan vào năm 2030 so với 2020, nhà nước không chỉ cần chính sách mà còn phải dẫn dắt trong nghiên cứu, phát triển, và chuyển giao công nghệ.

Vai trò của nhà nước trong thúc đẩy nghiên cứu công nghệ giảm mê-tan

Mê-tan (CH₄) chỉ tồn tại khoảng 10-20 năm trong khí quyển nhưng sức giữ nhiệt của nó mạnh hơn CO₂ rất nhiều. Các ước tính cho thấy trong vòng 20 năm đầu sau phát thải, mê-tan có thể giữ nhiệt mạnh gấp khoảng 70-80 lần so với CO₂, còn tính trong thời gian dài hơn (100 năm) là khoảng 25-30 lần. Vi sinh vật trong đất lúa ngập nước, trong phân, trong chất thải hữu cơ thiếu oxy đều sản sinh mê-tan.

Tại Việt Nam, ruộng lúa chiếm một phần rất lớn trong tổng phát thải mê-tan. Nguồn ảnh: Dialogue Earth

Tại Việt Nam, ruộng lúa chiếm một phần rất lớn trong tổng phát thải mê-tan. Nguồn ảnh: Dialogue Earth

Tại Việt Nam, ruộng lúa chiếm một phần rất lớn trong tổng phát thải mê-tan. Theo phân tích từ Viện nghiên cứu lúa gạo Quốc tế (IRRI), ruộng lúa chiếm khoảng 43% tổng phát thải mê-tan tính bằng CO₂ tương đương. Nếu muốn giảm 30% phát thải quốc gia, Việt Nam cần tập trung mạnh vào thay đổi kỹ thuật canh tác lúa, trong đó nghiên cứu, phát triển và phổ biến công nghệ ít phát thải là yếu tố thiết yếu.

Nhà nước có thể xem như người “đặt nền móng” cho nghiên cứu và phát triển công nghệ liên quan mê-tan qua các chương trình tài trợ, cơ chế ưu tiên, và định hướng chính sách. Trong Kế hoạch hành động giảm phát thải mê-tan của Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ ban hành, một trong các nhiệm vụ chính là “tăng cường nghiên cứu phát triển, tổ chức các hoạt động nghiên cứu và tiếp nhận chuyển giao các công nghệ tiên tiến” để giảm phát thải trong các ngành như trồng trọt, chăn nuôi, xử lý chất thải rắn và nước thải, dầu khí.

Nhà nước còn đóng vai trò điều phối giữa các bộ ngành, viện nghiên cứu, doanh nghiệp và đối tác quốc tế để đảm bảo rằng công nghệ khi được phát triển không chỉ phù hợp với điều kiện kỹ thuật mà còn phù hợp với thực tế các vùng miền, điều kiện canh tác, quy mô hộ gia đình và hệ thống hạ tầng hiện có.

Thời gian qua, tổ chức Green Carbon cùng các viện nông nghiệp ở miền Bắc đã phối hợp áp dụng phương pháp AWD – tưới ngập khô xen kẽ, giúp giảm phát thải mê-tan đồng thời vẫn giữ được sản lượng lúa. Những công nghệ khác như quản lý phân bón hiệu quả, quản lý rơm rạ, ứng dụng cảm biến và drone trong phân bón, tái sử dụng chất thải nông nghiệp để làm biogas đều được thử nghiệm trong các dự án nhỏ và được xem là có tiềm năng lớn để mở rộng. Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, việc áp dụng kỹ thuật như AWD hay quản lý phân bón hợp lý không chỉ giúp giảm khí mê-tan mà còn làm tăng hiệu suất sử dụng nước, giảm chi phí giống, phân bón, từ đó cải thiện thu nhập cho nông dân. Đây là minh chứng rõ ràng cho việc công nghệ không chỉ bảo vệ môi trường mà còn có lợi ích về kinh tế.

Chuyển giao công nghệ: Bài toán không chỉ về kỹ thuật

Dù đã có nhiều thành tựu bước đầu, vẫn có những rào cản khiến việc nghiên cứu phát triển chuyển giao công nghệ giảm mê-tan chưa lan tỏa mạnh.

Nguồn vốn cho nghiên cứu phát triển công nghệ xanh chưa lớn; nhà nghiên cứu thường phải chờ vào các dự án quốc tế hoặc quỹ tài trợ, nên thiếu tính liên tục. Việc thử nghiệm công nghệ trên diện rộng gặp khó khăn vì điều kiện địa phương rất khác nhau: Độ mặn, phèn, nguồn nước, thổ nhưỡng, quy mô hộ dân, cái gì tốt ở tỉnh này có khi không hiệu quả ở nơi khác.

Khí mê-tan là một trong những thủ phạm khiến Trái đất nóng lên nhanh hơn. Nguồn ảnh: Enviromental Blog

Khí mê-tan là một trong những thủ phạm khiến Trái đất nóng lên nhanh hơn. Nguồn ảnh: Enviromental Blog

Khó khăn trong tiếp cận thị trường tín chỉ carbon hoặc các cơ chế tài chính xanh; chi phí chuyển giao công nghệ có thể cao, rủi ro do thiếu chuyên môn bảo trì, bảo dưỡng, thiếu hỗ trợ kỹ thuật sau khi công nghệ được giới thiệu. Thiếu hệ thống giám sát đo đạc phát thải mê-tan chuẩn mực (MRV) để đánh giá công nghệ có thực sự giảm phát thải như quảng bá không; nếu không có số liệu kiểm kê đáng tin, nhà tài trợ quốc tế cũng như đối tác trong nước khó duy trì đầu tư.

Chuyển giao công nghệ không chỉ là việc mang thiết bị hay biện pháp vào Việt Nam, mà còn phải thích ứng với điều kiện địa lý, nét văn hoá canh tác, quy mô hộ nông dân, khả năng tài chính và năng lực quản lý địa phương. Chính phủ cần đảm bảo rằng công nghệ khi đưa vào không bị “cồng kềnh”, quá đắt đỏ, hoặc phụ thuộc vào nguyên liệu, bảo trì nước ngoài.

Ngoài ra, việc chuyển giao còn liên quan đến đào tạo, hướng dẫn sử dụng, bảo trì, theo dõi kết quả thực tế và điều chỉnh kỹ thuật. Nhà nước thông qua các viện nghiên cứu và trung tâm giống, trung tâm kỹ thuật nông nghiệp, hợp tác với các tổ chức quốc tế để tổ chức đào tạo cho nông dân, cán bộ cấp huyện/thành phố về các biện pháp giảm mê-tan như AWD, quản lý chất thải chăn nuôi, xử lý rơm rạ.

Vai trò của nhà nước trong nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ giảm phát thải mê-tan là không thể thiếu. Nhà nước là người định hướng chiến lược, tạo thể chế, điều phối hợp tác quốc tế, thiết lập cơ chế hỗ trợ và giám sát để đảm bảo kết quả thực tế.

Nguyễn Long
Bình luận

Có thể bạn quan tâm