Đồ chay “đắt khách” mùa Vu Lan Nhiều hoạt động Văn hóa nghệ thuật Phật giáo dịp Lễ Vu Lan diễn ra tại núi Bà Đen, Tây Ninh |
Nguồn gốc lễ Vu Lan
Theo quyển "Đại Việt sử Ký toàn thư" của nhà sử học Ngô Sĩ Liên, lễ Vu Lan bồn du nhập vào Việt Nam từ năm 1072. Qua thời gian, lễ Vu Lan không chỉ là một ngày lễ dành riêng cho Phật tử mà trở thành ngày lễ báo hiếu của tất cả người dân Việt Nam.
Ngày Vu lan báo hiếu (ngày rằm tháng Bảy âm lịch hàng năm) còn xuất phát từ sự tích Phật giáo được ghi lại trong kinh Vu Lan Bồn. Kinh "Vu Lan Bồn" có ghi lại: Ngày xưa, khi Bồ Tát Mục Kiền Liên tu thành chánh quả, tưởng nhớ mẫu thân đã dùng tuệ nhãn kiếm tìm khắp nơi trong trời đất, liền thấy mẹ mình đang ở trong loài ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ rất khổ sở.
Ngày Vu Lan báo hiếu được coi là dịp để mỗi người con thể hiện đạo hiếu của mình |
Thương mẹ, ngài đã vận thần thông xuống cõi ngạ quỷ dâng bát cơm đầy cho mẹ. Rất tiếc, bà Thanh Đề còn quá sân si và bởi ác nghiệp còn quá nặng nên khi bốc cơm đưa vào miệng thì cơm biến thành lửa. Tôn giả Mục Kiền Liên không có cách nào cứu được mẹ nên ngài liền quay về hỏi Đức Phật.
Đức Phật dạy rằng: "Dù ông có thần thông quảng đại như thế nào cũng không đủ sức cứu mẹ ông, chỉ có một cách là nhờ sự hợp lực của chư tăng khắp nơi, sau 3 tháng an cư kiết hạ cùng tập trung chú nguyện mới có thể chuyển hoá được nghiệp lực giúp mẹ ông thoát khỏi cảnh khổ".
Tôn giả Mục Kiền Liên làm theo lời Đức Phật, cung thỉnh chư Tăng, sắm sửa lễ cúng vào ngày 15/7 âm lịch.
Ý nghĩa lễ Vu Lan
Ngày nay, lễ Vu Lan không đơn thuần chỉ có ý nghĩa tôn giáo thiêng liêng mà còn được hiểu với ý nghĩa rộng hơn: Kêu gọi ý thức xã hội về tinh thần đền ơn đáp nghĩa, khuyến khích con người tri ân, đền ơn bốn nguồn ân đức, đó là: Tri ân và đền ơn cha mẹ sinh thành; thầy cô giáo những người dạy dỗ, truyền đạt tri thức cho con người; tri ân các bậc tiền bối đã dựng xây đất nước, các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh mang lại độc lập, chủ quyền thiêng liêng cho toàn đất nước; tri ân chính đồng loại con người.
Vào ngày Vu Lan báo hiếu, người đến chùa đi lễ thường sẽ cài lên ngực một bông hoa hồng để bày tỏ lòng thành với cha mẹ tổ tiên.
Nghi thức bông hồng cài áo bắt nguồn từ thiền sư Thích Nhất Hạnh. Kể rằng, trước năm 1962, trong một lần thiền sư vào nhà sách ở Nhật Bản vào đúng Ngày của Mẹ (Mother’s Day - Ngày lễ truyền thống của nhiều nước Âu, Mỹ), thiền sư đã được một cô gái cài lên áo tràng một bông hoa trắng mà không rõ lý do. Hỏi ra thì thiền sư được biết trong ngày này ai còn mẹ thì được cài bông hoa đỏ, ai mất mẹ thì cài hoa trắng.