Sinh ra tại thôn bản vùng sâu, vùng xa ở tỉnh Bắc Kạn, học hết cấp 1, chị Phay (dân tộc Dao) đã nghỉ học để lấy chồng và tham gia làm ruộng phụ giúp gia đình. Cả nhà chị Phay vất vả làm lụng suốt ngày mà vẫn nghèo do sản lượng thấp, vốn liếng không có. Năm 2010, chị Phay được bầu làm Chi hội trưởng Chi hội Phụ nữ thôn. Tại đây, chị đã được tiếp cận với mô hình quỹ tín dụng thôn bản (VSLA) do Tổ chức CARE Quốc tế tại Việt Nam giới thiệu.
Phụ nữ DTTS sẽ có thêm nhiều cơ hội vươn lên khi được tiếp cận các nguồn lực như: Kiến thức nông nghiệp, vốn, khoa học kỹ thuật… |
Chị Phay và những phụ nữ dân tộc Dao trong thôn đã thành lập một nhóm và cùng nhau vay vốn, học canh tác nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu trong bối cảnh địa phương. Giờ đây, các kỹ năng, kiến thức và tinh thần đoàn kết của chị em trong thôn đã tăng lên rõ rệt. Quan trọng hơn, chồng của các chị cũng ủng hộ, giúp đỡ họ nhiều hơn và đã bắt đầu chia sẻ việc nhà để phụ nữ có thêm thời gian tham gia các hoạt động bên ngoài. “Mọi thứ đều tốt hơn. Tôi ước mình để dành được đủ tiền để con cái ăn học. Dù là con trai hay con gái, miễn là chúng muốn đi học thì vợ chồng tôi sẽ cố hết sức để lo cho con đi học, như vậy đời các con tôi sẽ bớt khổ hơn chúng tôi” – chị Phay chia sẻ.
Câu chuyện của chị Phay chỉ là một trong vô số những trường hợp phụ nữ DTTS sau khi được CARE hỗ trợ, tập huấn đã bước qua những định kiến cũ để chủ động có tiếng nói trong các quyết định ảnh hưởng tới chính họ.
Thực tế, sinh kếcủa phụnữDTTS vùng sâu, vùng xa phụthuộc chủ yếu vào đất đai song chị em lại thiếu cơ hội tiếp cận bình đẳng tới nguồn tài nguyên đất vàvốn. Bên cạnh đó, nhiều chị em còn là nạn nhân của bạo hành giới. Không ít chị em sống ở các bản làng heo hút chưa có cơ hội tiếp cận các dịch vụ pháp lý để được bảo vệ, nên thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ phải bỏ học, kết hôn sớm, phải cố sinh con trai, lao động nặng nhọc, không có tiếng nói trong gia đình…
Nhận thấy những hạn chế của chị em phụ nữ DTTS, những năm qua, các dự án của CARE đều chú trọng vào việc tăng cường tiếng nói của phụ nữ và trẻ em gái cũng như giúp họ tham gia tích cực tới những quyết định có tác động đến cuộc sống của họ. Có thể kể đến các dự án như:
Nâng cao nhận thức và tiếng nói của cộng đồng DTTS phía Bắc trong ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới; Nâng quyền kinh tế của phụ nữ DTTS thông qua cải tiến sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ nông sản; Tăng cường khả năng tiếp cận thông tin dành cho phụ nữ DTTS; Nâng quyền cho phụ nữ DTTS; Kết nối tài chính vì sự hòa nhập của phụ nữ từ các cộng đồng DTTS vùng sâu, vùng xa ở Việt Nam… Trong đó, CARE tập trung hỗ trợ nhằm đưa tiếng nói của những phụ nữ DTTS tới các cấp chính quyền, nâng cao vị thế của họ trong cộng đồng và xã hội, đồng thời tăng cường sự tham gia của họ trong hoạch định chính sách và triển khai chương trình.
Thông qua các dự án này, hàng triệu phụ nữ DTTS ở các tỉnh: Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Bắc Kạn đã được tiếp cận các nguồn lực như: Vốn, bảo hiểm, cải thiện năng suất, ứng phótốt hơn với các rủi ro, đồng thời tận dụng cơ hội mang lại từnhững sự thay đổi của thời tiết… Đặc biệt, với cách làm riêng, các dự án của CARE đã góp phần vào việc “phá vỡ sự im lặng” nhiều đời của chị em, giúp chị em không chỉ có cơ hội tiếp cận các nguồn lực mà còn được lên tiếng để tác động đến hoạch định chính sách. Rõ ràng, để đạt mục tiêu xóa đói, giảm nghèo bền vững và công bằng xã hội, vai trò của người phụ nữ là vô cùng quan trọng. Thực tế đã chứng minh, nếu được cung cấp các nguồn lực thích hợp, phụ nữ có khả năng giúp cả gia đình và toàn cộng đồng thoát khỏi đói nghèo; phụ nữ DTTS cũng hoàn toàn có thể làm được điều này.
Với những gì CARE đã và đang thực hiện tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, tư duy và nhận thức của nhiều nhóm phụ nữ DTTS đang có những thay đổi tích cực. Đây cũng chính là cú hích quan trọng để tiến tới bình đẳng giới, từng bước nâng cao vị thế của phụ nữ DTTS trong cộng đồng và xã hội.