Đó là khẳng định của đại điện Ngân Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tại Hội nghị trực tuyến Giải pháp của ngành Ngân hàng góp phần tháo gỡ khó khăn cho ngành lúa gạo khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) tổ chức sáng 26/8.
Nhiều khó khăn, vướng mắc
Theo phản ánh của NHNN chi nhánh các tỉnh vùng ĐBSCL, do nhiều tỉnh đang áp dụng giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, nên các doanh nghiệp ngành lúa gạo gặp nhiều khó khăn trong việc thu hoạch, lưu thông, sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo. Cụ thể, các thương lái và phương tiện gặt, đập liên hợp ngoài tỉnh bị hạn chế vào địa bàn, trong khi vụ lúa Hè Thu đã và đang vào vụ thu hoạch, khiến người dân tạm dừng hoặc không mạnh dạn đầu tư vào sản xuất, trồng trọt.
Bên cạnh đó, lưu thông hàng hóa của khách hàng gặp rất nhiều khó khăn; các hộ nông dân thu hoạch không tiêu thụ được do không tiếp xúc được với thương lái mua; thiếu hụt nghiêm trọng tài xế xe tải, container và tài công ghe, sà lan vận chuyển gạo, lúa khiến khâu khâu vận chuyển lúa từ ruộng về nhà máy gặp khó khăn.
Ngoài ra, các địa phương áp dụng thời gian hiệu lực của xét nghiệm Covid-19 khác nhau cũng gây khó khăn cho các phương tiện vận chuyển. Đại diện NHNN chi nhánh các tỉnh vùng ĐBSCL nêu ví dụng tại 4 tỉnh: Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang và Cần Thơ tình hình dịch gần như nhau, nhưng Đồng Tháp, Kiên Giang và Cần Thơ cho phép hiệu lực trong 72 giờ, trong khi đó An Giang là 24 giờ…
Hội nghị trực tuyến Giải pháp của ngành Ngân hàng góp phần tháo gỡ khó khăn cho ngành lúa gạo khu vực ĐBSCL do NHNN tổ chức |
Một điểm khó khăn nữa của các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long được các đại biểu nêu ra là, các khách hàng là doanh nghiệp đang tổ chức sản xuất theo mô hình “3 tại chỗ”. Do đó, năng suất hoạt động bị giảm do thiếu hụt nguồn công nhân làm ảnh hưởng đến tiến độ giao hàng. Một số nhà máy của doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động do nằm trong vùng dịch.
Đặc biệt, do ảnh hưởng dịch Covid -19, tình hình xuất khẩu gạo rất khó khăn, các doanh nghiệp chỉ xuất khẩu cầm chừng vì không có nhiều đơn hàng. Chuỗi sản xuất, cung ứng của nhiều doanh nghiệp bị đứt gãy. Hàng hóa tồn kho với số lượng lớn, doanh nghiệp khó khăn trong việc tiếp cận khách hàng; giảm đơn hàng, giảm sản lượng, trì hoãn, phát sinh thêm chi phí phòng chống dịch Covid -19. Nhiều trường hợp doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực thu mua và chế biến nông sản dừng hoạt động do tình hình dịch.
Mở rộng, tăng hạn mức tín dụng cho doanh nghiệp ngành lúa, gạo
Trước những khó khăn mà đại diện NHNN chi nhánh các tỉnh vùng ĐBSCL nêu lên, phát biểu tại hội nghị, ông Đào Minh Tú, Phó Thống đốc Thường trực NHNN cho biết, thời gian qua, ngành Ngân hàng đã triển khai thực hiện nhiều chính sách để hỗ trợ ngành lúa gạo, như các chương trình tín dụng ưu tiên, hạ mức trần lãi suất và hỗ trợ giảm chi phí vay vốn đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo…
Trong thời gian tới ngành Ngân hàng sẽ tiếp tục triển khai các giải pháp hỗ trợ kịp thời nhu cầu vốn của thương nhân kinh doanh, đầu tư chế biến thóc, gạo, người sản xuất lúa. “Lúa gạo là ngành sản xuất chính trong lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam nói chung, Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, do vậy, ngành ngân hàng luôn quan tâm đầu tư tín dụng đối với lĩnh vực này” - ông Đào Minh Tú khẳng định.
Cũng theo Phó Thống đốc NHNN, ngành Ngân hàng sẽ mở rộng, tăng hạn mức tín dụng cho các doanh nghiệp để đảm bảo đủ nguồn vốn thu mua, tạm trữ thóc, gao cho người nông dân trong vụ Hè Thu, tới đây là vụ Thu Đông. Từ đó, góp phần ổn định giá thóc gạo, đảm bảo lợi nhuận cho người trồng lúa.
Ông Đào Minh Tú, Phó Thống đốc NHNN: Ngành Ngân hàng sẽ mở rộng, tăng hạn mức tín dụng cho doanh nghiệp ngành lúa, gạo |
Ông Đào Minh Tú cũng cho hay, ngành ngân hàng sẽ thực hiện nghiêm túc quy định về trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; trong đó, có ngành lúa gạo. Cùng đó, tiết giảm mọi chi phí hoạt động không cần thiết để dành nguồn lực giảm lãi suất vay; thực hiện cam kết đồng thuận giảm lãi suất cho vay lên tới 1%/năm trong các tháng cuối năm như kế hoạch đã đăng ký với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam theo chỉ đạo của NHNN.
Phó Thống đốc NHNN cũng khẳng định, sẽ linh hoạt áp dụng các hình thức bảo đảm tiền vay, xem xét cho vay không có tài sản bảo đảm trên cơ sở quản lý dòng tiền. Đồng thời, tiếp tục cải tiến quy trình, thủ tục cho vay, rút ngắn thời gian xét duyệt và đa dạng hóa các loại sản phẩm tín dụng để tạo thuận lợi cho khách hàng trong tiếp cận vốn tín dụng.
“Ngành ngân hàng cũng chủ động tiếp cận các doanh nghiệp, thương nhân lúa gạo và thỏa thuận các nội dung liên quan theo nguyên tắc tín dụng thương mại, phù hợp quy định pháp luật về cấp tín dụng. Đồng thời, tuyên truyền mạnh để người dân, doanh nghiệp nắm bắt đầy đủ các chính sách, sản phẩm tín dụng ngân hàng và chủ động tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng” - Phó thống đốc Đào Minh Tú nói.
Theo NHNN, hiện đã có nhiều chính sách hỗ trợ tín dụng đối với ngành lúa, gạo như: Chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015, Nghị định 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2015/NĐ-CP; các chương trình tín dụng đặc thù theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ...
Về lãi suất, Ngân hàng Nhà nước đã có quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với các lĩnh vực ưu tiên; trong đó, có lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, bao gồm ngành lúa gạo thấp hơn so với lãi suất cho vay các lĩnh vực thông thường khác, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận vốn tín dụng.
Tính đến cuối tháng 7/2021, dư nợ ngành lúa gạo đạt 144.657 tỷ đồng, tăng 11,33% so với cuối năm 2020. Riêng tại Đồng bằng sông Cửu Long, dư nợ ngành lúa gạo đạt 74.139 tỷ đồng, tăng 15,45% và chiếm 51,25% dư nợ lúa gạo toàn quốc.
Từ đầu năm 2021 tới nay, các tổ chức tín dụng tại ĐBSCL đã cấp hạn mức tín dụng khoảng 56.000 tỉ đồng cho các doanh nghiệp, thương nhân thu mua, tạm trữ lúa gạo, đã giải ngân với tổng doanh số lũy kế 93.000 tỉ đồng để thu mua gần 7,3 triệu tấn gạo. Dư nợ thu mua, tiêu thụ đến cuối tháng 8/2021 ước đạt 51.500 tỉ đồng, tăng 22% so với năm 2020, chiếm 92% hạn mức được cấp.
Trong giai đoạn 2016 - 2020, tốc độ tăng trưởng dư nợ của ngành lúa gạo luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn (bình quân/năm lúa gạo tăng 24%, nông nghiệp, nông thôn tăng 18,16%).